Hậu quả của loãng xương
Bệnh loãng xương ngày càng có xu hướng gia tăng, bệnh có thể để lại biến chứng nếu không phát hiện và chữa trị kịp thời. Tuy vậy, loãng xương có thể phòng ngừa được.
Ảnh minh họa: Internet
Bệnh loãng xương ngày càng có xu hướng gia tăng, bệnh có thể để lại biến chứng nếu không phát hiện và chữa trị kịp thời. Tuy vậy, loãng xương có thể phòng ngừa được.
Nguyên nhân gây loãng xương
Bệnh loãng xương gặp ở nữ nhiều hơn nam, trong đó phụ nữ tuổi tiền mãn kinh và mãn kinh chiếm tỷ lệ cao hơn cả. Loãng xương để lại nhiều hậu quả xấu, vì vậy, cần biết để phòng bệnh.
Loãng xương là sự rối loạn nội tiết làm cho cấu trúc xương bị tổn hại, lực của xương bị suy giảm và dẫn đến xương dễ bị gãy, nứt, rạn. Loãng xương hay gọi là xốp xương tức là tỷ trọng khoáng chất của bộ xương ở một cơ thể bị suy giảm một cách đáng kể, trong đó hormon sinh dục (estrogen, androgen), các chất protein, vitamin D và canxi đóng vai trò quan trọng.
Khi chế độ dinh dưỡng hàng ngày không cung cấp đầy đủ chất canxi hoặc vì một lý do nào đó cơ thể không hấp thu được canxi (ăn kiêng kéo dài, chế độ ăn nghèo nàn, kém chất lượng) thì sẽ gây loãng xương. Loãng xương cũng có thể do mắc một số bệnh về tuyến thượng thận, cường giáp trạng, suy thận, bệnh yếu liệt chi, chấn thương hoặc bệnh mạn tính phải nằm dài ngày hoặc do lạm dụng thuốc corticoid trong một thời gian dài.
Đặc biệt ở phụ nữ đến thời kỳ tiền mãn kinh và mãn kinh, lượng hormon oestrogen trong máu bị suy giảm một cách đáng kể bởi sự suy thoái của buồng trứng. Sự suy giảm oestrogen sẽ làm tăng hoạt tính của tế bào tủy xương, từ đó khối lượng xương sẽ mất dần theo năm tháng kể từ khi tiền mãn kinh (mỗi năm mất khoảng từ 2 – 4%).
Ngoài yếu tố về chế độ dinh dưỡng và nội tiết tố còn có nhiều yếu tố thuận lợi khác (gọi là yếu tố nguy cơ) làm cho bệnh loãng xương tăng nếu như một người nào đó có tiền sử bị còi xương lúc còn nhỏ, hàng ngày ít vận động, béo phì.
Những hệ quả xấu do loãng xương
Giảm mật độ xương và loãng xương là một bệnh mạn tính kéo dài nhiều tháng, nhiều năm, âm thầm, không gây đau đớn nên người bệnh không để ý đến.
Video đang HOT
Hầu hết các trường hợp trong các giai đoạn đầu không có triệu chứng gì đặc biệt ngoài một số dấu hiệu mệt mỏi, ăn uống kém, nhức xương không thường xuyên.
Càng về sau, sự thiếu hụt canxi càng gia tăng làm cho xương xuống cấp nghiêm trọng (loãng, xốp xương) thì các triệu chứng đau nhức xương rõ rệt hơn.
Đó là đau lưng, đau các khớp chân, tay và mỏi bại hông, đặc biệt là các khớp xương chịu lực mạnh (xương sống, khớp gối, khớp cổ chân, cổ tay, ngón tay, bàn tay). Với các xương dài như xương đùi, xương cẳng chân, xương cánh tay, cẳng tay, đốt sống thắt lưng sẽ dễ dàng bị gãy xương do bị ngã, vấp, chấn thương, tai nạn.
Đau nhức xương và các khớp xương thường rõ nhất vào ban đêm. Ngoài đau nhức xương, mệt mỏi thì một số triệu chứng khác như chuột rút cũng thường xuất hiện ở những người loãng xương.
Khi bị bệnh loãng xương không được phát hiện hoặc phát hiện rồi nhưng điều trị không đúng phác đồ thì hậu quả xấu nhất là rạn xương, nứt vỡ hoặc gãy xương.
Trên thế giới, cứ 30 giây thì có một người bị bệnh gãy xương do loãng xương và được dự đoán rằng đến năm 2050 các nước châu Á, trong đó có nước ta sẽ có 50% các trường hợp tàn phế hoặc bị đe dọa đến tính mạng do gãy khớp háng vì loãng xương gây ra.
Khi bị loãng xương, nếu có một lực tác động mạnh (ngã, gập chân, trượt chân…) thì sẽ xuất hiện gãy, lún cột sống, gãy cổ xương đùi, xương cẳng chân, xương cẳng tay.
Loại xương nào cũng có thể bị loãng nhưng những loại thường bị chịu lực tác động nhiều nhất sẽ để lại hậu quả xấu hơn cả. Vì vậy, gãy cổ xương đùi, gãy cổ tay, gãy khớp háng chiếm tỷ lệ cao nhất trong bệnh lý loãng xương.
Có phòng ngừa được không?
Những người tuổi đã cao, đặc biệt là phụ nữ nên đi khám bệnh về xương khớp ở các cơ sở y tế có đủ điều kiện để được làm các xét nghiệm về cận lâm sàng đánh giá mật độ của xương và tình trạng của xương.
Việc phát hiện sớm và điều trị ngay từ đầu là việc làm rất có ý nghĩa để phòng bệnh loãng xương và ngăn ngừa gãy xương. Ngoài ra, những người đã đến tuổi trưởng thành kém phát triển chiều cao, cân nặng dưới 40kg hoặc giảm trọng lượng nhanh, cơ bắp yếu, thiếu hormon sinh dục (nữ giới là estrogen và nam giới là androgen), người nghiện rượu, sử dụng corticoid kéo dài, nghiện thuốc lá… cũng nên kiểm tra mật độ của xương.
Khi đã được chẩn đoán bị bệnh loãng xương, việc điều trị đòi hỏi phải kiên trì không phải ngày một, ngày hai. Uống thuốc gì, liều lượng bao nhiêu và trong thời gian nào là do thầy thuốc khám bệnh và có chỉ định cụ thể.
Bị bệnh loãng xương phải hết sức cẩn thận khi làm các động tác mạnh, đi lại cũng phải hết sức thận trọng tránh ngã, vấp, khuỵu, gập chân, tay nhất là lên cầu thang vì rất dễ gây gãy xương, đặc biệt là xương đùi.
Muốn phòng bệnh loãng xương, tốt nhất là ăn uống đủ chất, đặc biệt là các loại thức ăn giàu canxi, protein, vitamin D như: tôm, cua, ốc, uống sữa và các chế phẩm của sữa có chứa nhiều thành phần canxi, sinh tố D. Nên ăn thêm trái cây, rau, giá đỗ (chứa nhiều estrogen) vì chúng có khả năng làm thay đổi sự chuyển hóa của xương, giảm tốc độ mất xương và làm tăng khoáng chất cho xương.
Cần tập thể dục nhẹ nhàng, đều đặn như đi bộ, tập hít thở, tập vận động các khớp xương. Những người đã bị loãng xương không nên làm các động tác mạnh, gấp gáp và tránh ngã, vấp.
Theo Sức khỏe & Đời sống
Nhìn răng đoán bệnh
Mất răng sớm có thể là một dấu hiệu của loãng xương. Người nghiến răng có xu hướng nóng nảy, ganh đua, hay lo lắng.
Ảnh minh họa: Internet
Hàm răng không chỉ cho biết bạn là ai mà còn thể hiện sức khỏe tinh thần và sức khỏe xương của bạn. Mất răng sớm có thể là một dấu hiệu của loãng xương. Người nghiến răng có xu hướng nóng nảy, ganh đua, hay lo lắng.
Hàm răng cho biết bạn là ai
Bất cứ ai từng xem các bộ phim về điều tra tội phạm đều biết rằng thời điểm thám tử phát hiện ra một cơ thể không rõ danh tính, điều đầu tiên họ làm là liên lạc để tìm hiểu về hồ sơ răng miệng. Việc sử dụng hồ sơ răng miệng để xác định danh tính là chính xác.
Răng giống như dấu vân tay và có sự sắp xếp không giống nhau giữa từng người. Các nha sĩ pháp y có thể xác định danh tính một người bằng biểu đồ răng của họ chỉ với một ít răng còn lại trên xương hàm. Răng có thể cho bạn biết nhiều thông tin hơn ngoài cái tên của một người.
Ví dụ, từ răng của bạn nha sĩ pháp y có thể biết về tuổi tác, giới tính, gốc gác tổ tiên bạn, việc bạn chơi một loại nhạc cụ nào đó, hay thói quen ăn uống của bạn, bạn có phải là người nghiện thuốc lá hay không. Họ thậm chí còn có thể biết rõ bạn đã làm gì để kiếm sống.
Phần thú vị nhất là răng có thể tồn tại một thời gian rất dài nếu được bảo quản trong điều kiện thích hợp, vì vậy có thể là rất lâu sau khi bạn qua đời răng của bạn sẽ vẫn nhắc nhớ bạn là ai.
Sức khỏe xương
Răng, mặc dù là một phần của hệ thống xương, nhưng không được coi là xương. Tuy nhiên, sức khỏe của răng đôi khi có thể phản ánh sức khỏe của xương, và không giống như xương, chúng có thể được quan sát mà không cần bất cứ thủ thuật gây đau nào. Có lẽ loại xương dễ quan sát nhất có thể chỉ báo sức khỏe của bạn chính là xương hàm. Thông thường, sự ăn mòn xương hàm có thể được nhận biết từ sự mất răng hoặc đau răng.
Thật không may, tổn thương xương hàm thường có liên quan tới tổn thương xương khác và mất răng sớm được coi là một dấu hiệu của loãng xương.
Loãng xương khiến cho xương răng trở nên yếu và dễ gãy. Bệnh này, mặc dù được cho là ảnh hưởng tới tất cả mọi người nhưng vẫn thường gặp nhiều hơn ở phụ nữ da trắng và châu Á, những người đã qua thời kỳ mãn kinh. Rất may, tình trạng này có thể điều trị khi được phát hiện sớm.
Sức khỏe tâm thần
Răng là một trong số ít những bộ phận của cơ thể thể hiện tính cách của một người. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng nghiến răng thường liên quan đến những đặc điểm nhất định. Ví dụ, những người nghiến răng có xu hướng nóng nảy, ganh đua và trên tất cả là hay lo lắng. Trên thực tế, khoảng 70% những người nghiến răng bị như vậy vì họ căng thẳng và lo âu.
Một tình trạng khác có thể được phát hiện từ sức khỏe răng miệng là chứng rối loạn ăn uống. Theo Hiệp hội Rối loạn ăn uống Quốc gia Mỹ, trên 83% tất cả những bệnh nhân mắc chứng cuồng ăn có dấu hiệu của răng bị ăn mòn do sự kết hợp của trào ngược axit dạ dày thường xuyên và đánh răng hoặc súc miệng quá nhiều.
Thiếu hụt vitamin do chứng biếng ăn cũng có thể ảnh hưởng tới răng. Các dấu hiệu và triệu chứng của các biến chứng răng miệng do rối loạn ăn uống gồm tổn thương ăn mòn bề mặt răng, thay đổi về vẻ ngoài của răng và tăng nhạy cảm.
Nguy cơ mắc chứng sa sút trí tuệ
Theo Bệnh viện Mayo Clinic, Mỹ, mất răng trước tuổi 35 được coi là một yếu tố nguy cơ của bệnh Alzheimer. Mặc dù vẫn phải chứng minh điều kiện vệ sinh răng miệng kém có dẫn tới sa sút trí tuệ ở những người khỏe mạnh hay không, nhưng rõ ràng là có mối liên quan giữa P. gingivalis, một loại vi khuẩn được tìm thấy ở lợi với sự tử vong ở một số bệnh nhân Alzheimer.
Cũng có khả năng những vi khuẩn này khiến cho cho bệnh trầm trọng hơn.
Các kết quả trên vẫn chưa phải là cuối cùng, và các nhà nghiên cứu hi vọng một ngày nào đó họ có thể so sánh được não của những người bị sa sút trí tuệ và những người có trí nhớ bị ảnh hưởng với các hồ sơ răng miệng có liên quan để xác định xem có hay không mối liên quan giữa vệ sinh răng miệng và sa sút trí tuệ ở người khỏe mạnh.
Theo Vnexpress
Phòng ngừa những bệnh dễ mắc phải vào mùa thu Mùa thu được coi là mùa dễ chịu nhất trong năm, thời tiết mát mẻ, nhưng ít người biết đây cũng là mùa dễ mắc một số bệnh hơn các mùa khác. Mùa thu được coi là thời điểm thời tiết có nhiều thay đổi, thậm chí là giao thoa giữa mùa hè và mùa đông. Chính vì vậy, vào mùa thu, nhiệt...