CIA đã thao túng tâm trí con người thế nào trong Chiến tranh Lạnh?
CIA lập ra nhà thổ như một cái bẫy để thử nghiệm thuốc gây ảo giác trên người khách m.ua d.âm vào những năm 1950.
Ngày 10/10/1953, giám đốc Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) Allen Dulles phát biểu trước một nhóm cựu sinh viên Đại học Princeton. Khi đó, căng thẳng của Chiến tranh Lạnh đang tăng cao. Chiến tranh Triều Tiên sắp kết thúc và New York Times vừa đăng một bài báo gây sửng sốt, nói rằng tù binh Mỹ hồi hương có thể đã bị “ tẩy não”.
“Trong vài năm gần đây, chúng ta nghe nhiều về cuộc chiến giành quyền kiểm soát tâm trí của con người. Tôi tự hỏi liệu chúng ta có nhận thức rõ ràng về mức độ nghiêm trọng của vấn đề hay không”, Dulles nói. Ông cho rằng Liên Xô đã sử dụng “những kỹ thuật cải tạo tâm trí” và đã bỏ xa Mỹ về mảng này.
Cựu giám đốc CIA Allen Dulles. (Ảnh: AP).
Những tin đồn về “chiến tranh tâm trí” là đề tài thu hút sự chú ý của công chúng Mỹ những năm 1950, được thúc đẩy bởi những câu chuyện về những binh sĩ Mỹ thú nhận tội ác chiến tranh, như thực hiện chiến tranh vi trùng – cáo buộc mà Mỹ đã bác bỏ. Một số người được cho là bị “tẩy não” đến mức họ từ chối trở về Mỹ.
Ba ngày sau bài phát biểu trước các cựu sinh viên. Dulles phê chuẩn MKUltra, chương trình sử dụng vật liệu sinh học và hóa học bí mật. Dự án được thực hiện thông qua Văn phòng Tình báo Khoa học của CIA phối hợp với Phòng thí nghiệm Chiến tranh Sinh học Quân đội Mỹ.
Họ muốn phát triển các kỹ thuật có thể được sử dụng để chống lại Liên Xô và các đối thủ khác bằng cách kiểm soát hành vi của con người qua thuốc hay các biện pháp khác. CIA muốn sản xuất ra thuốc “nói sự thật” để thẩm vấn những người bị nghi là điệp viên Liên Xô. Ngoài ra, họ còn muốn tìm cách thao túng các lãnh đạo nước ngoài.
CIA chi khoảng 10 triệu USD tiến hành các thí nghiệm tập trung vào việc điều chỉnh hành vi thông qua dùng thuốc, hóa chất, liệu pháp sốc điện và thôi miên. Các đối tượng tham gia thí nghiệp gồm tình nguyện viên, những người bị ép buộc và cả những người hoàn toàn không biết họ liên quan đến một chương trình nghiên cứu quốc phòng.
Phần lớn nỗ lực của CIA tập trung vào thuốc gây ảo giác LSD vì cho rằng nó có thể hỗ trợ việc thẩm vấn. Cuối những năm 1940, CIA nhận được thông tin rằng Liên Xô đã đẩy mạnh sản xuất LSD trong khi người Mỹ có ít hiểu biết về nó.
Họ thí nghiệm với các bệnh nhân tâm thần, tù nhân, người nghiện m.a t.úy và gái mại dâm đây vì đây là những người ít có khả năng phản kháng nhất. Tù nhân là những mục tiêu tốt vì họ sẵn sàng đồng ý để đổi lấy thêm thời gian giải trí trong tù hoặc được giảm án.
Whitey Bulger, cựu trùm tội phạm có tổ chức bị tiêm LSD năm 1957. Ảnh: Donaldson Collection.
Whitey Bulger, cựu trùm tội phạm có tổ chức là đối tượng thí nghiệm năm 1957 tại nhà tù Atlanta. “8 tội phạm hoảng loạn và gặp ảo giác. Chúng tôi không muốn ăn gì. Căn phòng thay đổi hình dạng. Chúng tôi thấy những cơn ác mộng biến thành hiện thực và thậm chí là m.áu c.hảy ra từ các bức tường. Những người đàn ông biến thành bộ xương trước mặt tôi. Tôi thấy một chiếc camera biến thành đầu con chó. Tôi cảm thấy như mình sắp phát điên”, Bulger mô tả trải nghiệm khi bị tiêm LSD.
Họ còn cho các nhân viên CIA, quân nhân, bác sĩ, nhân viên chính phủ và người dân bình thường sử dụng LSD để nghiên cứu phản ứng. Những thí nghiệm này thường được thực hiện mà không có sự đồng ý của đối tượng. Mục đích là tìm ra những loại thuốc có thể khiến con người nói ra bí mật hay quét sạch tâm trí của một người và khiến người đó tuân lệnh như một con robot.
Video đang HOT
Nội dung tai tiếng nhất trong dự án là Chiến dịch Cao trào Nửa đêm. Năm 1955, CIA thiết lập một số nhà thổ tại San Francisco, California để dụ dỗ những người đàn ông đến đây. Khách m.ua d.âm bị chuốc LSD, phản ứng của họ được người đứng đầu chiến dịch quan sát qua gương một chiều (người phía bên này gương không biết mình đang bị nhìn trộm) và được ghi hình để nghiên cứu.
Ở các thí nghiệm khác, chủ thể bị cho dùng LSD mà họ không hay biết. Sau đó, họ bị thẩm vấn dưới ánh đèn sáng, ép nói ra bí mật trong khi các bác sĩ ở phía sau ghi chép. Những người bị thẩm vấn là nhân viên CIA, quân nhân Mỹ và các đặc vụ bị nghi ngờ làm việc cho đối thủ. Một số người đã bị suy nhược lâu dài và t.ử v.ong.
Một kỹ thuật khác được nghiên cứu là tiêm vào tĩnh mạch thuốc ức chế hệ thần kinh trung ương barbiturate vào một cánh tay và chất kích thích amphetamine vào cánh tay kia. Barbiturate được tiêm trước, khiến người này đi vào giấc ngủ. Sau đó, khi chất kích thích được tiêm, người này sẽ rơi vào tình trạng nửa tỉnh nửa mê, nói năng không mạch lạc. Các nhà khoa học sẽ đặt câu hỏi và đôi khi nhận được câu trả lời hữu ích.
Các nhà nghiên cứu sau này đ.ánh giá khó có thể sử dụng LSD vì quá khó đoán trước kết quả. Dự án giảm quy mô sau khi John Vance, một thành viên của cơ quan thanh tra CIA, năm 1963 phát hiện dự án thực hiện thí nghiệm với những người không tự nguyện.
Năm 1973, khi chính quyền Richard Nixon đối mặt với bê bối Watergate (những người thân cận với Nixon tổ chức cuộc đột nhập vào văn phòng đảng Dân chủ), giám đốc CIA khi đó là Richard Helms đã ra lệnh phá hủy tất cả hồ sơ về MKUltra. Khoảng 20.000 tài liệu “sống sót” vì chúng bị lưu trữ nhầm trong một tòa nhà giữ hồ sơ tài chính.
Năm 1977, thượng viện tổ chức phiên điều trần về tác động của MKUltra. Nhiều cựu nhân viên CIA được triệu tập nhưng những người này nói rằng họ không nhớ chi tiết những cuộc thử nghiệm hay số lượng người tham gia. MKUltra bị chỉ trích là đáng ghê tởm và phi đạo đức.
Frank Olson, người t.ự t.ử sau khi bị cho dùng LSD năm 1953. (Ảnh: Metro).
Do hầu hết hồ sơ bị hủy, không thể xác định chính xác số người t.hiệt m.ạng vì dự án. Một nạn nhân gây chú ý là nhà nghiên cứu vũ khí sinh học Frank Olson. Ông này không biết rằng mình đã được cho dùng LSD vào tháng 11/1953 và đã n.hảy l.ầu tự tử một tuần sau đó.
Sau khi dự án bị phanh phui, một số người nộp đơn kiện chính phủ liên bang vì tiến hành các thí nghiệm mà không có sự đồng ý của họ. Một số người đã được bồi thường, trong đó gia đình Olson nhận được 750.000 USD.
Nguồn: VnExpress
Cục Tình báo trung ương Mỹ (CIA) bất ngờ công bố dự án “siêu nhân” của mình, kết quả kinh ngạc
Tháng 1-2017, Cục Tình báo trung ương Mỹ (CIA) đã công bố toàn bộ những tài liệu liên quan đến một dự án tình báo bí ẩn nhất hành tinh - Dự án Stargate.
Đây là một dự án chuyên tuyển mộ những người có khả năng siêu nhiên và đào tạo họ để phục vụ cho các mục đích gián điệp và quân sự.
Cách không khán vật
Theo Mysterious Universe, vào những năm 40, 50 của thế kỷ trước, Mỹ là quốc gia đầu tiên bày tỏ ý định về những thử nghiệm kỳ quái tưởng chừng chỉ có trên phim ảnh về việc vận dụng những khả năng siêu nhiên của con người cho mục đích an ninh quốc phòng.
Đến những năm 70, cường quốc số 1 thế giới mới bắt đầu theo đuổi các nghiên cứu về sức mạnh tâm linh dưới sự đồng ý của quân đội Mỹ, CIA và Cơ quan Tình báo Quốc phòng (DIV). Trải qua sự lãnh đạo của tướng Edmund Thompson, tướng Albert Stubblebine - dự án cuối cùng được biết đến với cái tên Dự án Stargate, được thành lập năm 1978 tại Fort Meade, Maryland, bởi DIA và SRI International (một nhà thầu California) để nghiên cứu tiềm năng về hiện tượng tâm linh trong các ứng dụng tình báo quân sự và trong nước.
Một trong những trọng tâm chính của Dự án Stargate là nghiên cứu về khả năng dao thị, được diễn giải như năng lực quan sát và mô tả địa điểm, thông tin hoặc các đồ vật từ đằng xa. Ứng dụng với tiềm năng to lớn này được Chính phủ Mỹ theo đuổi một cách mạnh mẽ do tin rằng Liên Xô đã bắt tay vào nghiên cứu từ trước đó.
Về cơ bản Washington không muốn chậm chân trong cuộc đua "vũ trang ngoại cảm" với đối thủ của mình.
Theo các nhà nghiên cứu khoa học huyền bí, dao thị là một trong những khả năng xuất hiện sau khi người ta đã khai mở "con mắt thứ ba", hay còn gọi là "thiên mục".
Theo các thư tịch cổ, thiên mục chính là thể tùng quả nằm ở nê hoàng cung trong não người. Giải phẫu y học hiện đại cũng đã phát hiện nửa bộ phận phía trước của thể tùng quả có một kết cấu đầy đủ của một con mắt người. Vì nó đặt ở vị trí bên trong sọ não, nên người ta cho rằng nó là một con mắt thoái hóa.
Uri Geller dùng tư tưởng để uốn cong chiếc thìa bằng thép không gỉ
Tuy nhiên, các thư tịch cổ lại gọi nó là thiên mục, và những người đã khai mở thiên mục chính là những người có thể nhìn bằng "con mắt thứ ba" này.
Những người khai mở thiên mục có thể có khả năng thấu thị (nhìn xuyên đồ vật), dao thị (nhìn đồ vật ở xa) hoặc thậm chí là "túc mệnh thông" (thấy được tương lai hoặc quá khứ, hoặc nhìn được sự vật, cảnh tượng ở một không gian khác.
Dự án Stargate ban đầu tuyển mộ khoảng 20 người được cho là có năng lực ngoại cảm để huấn luyện. Họ phải trải qua các xét nghiệm khoa học cần thiết, cũng như luyện tập một cách bài bản để trở thành thành viên của đội quân gián điệp ngoại cảm.
Những người này sẽ ngồi trong một căn phòng tối và đặt bản thân vào tình trạng bị thôi miên, sau đó họ sẽ mô tả lại những hình ảnh về một nơi rất xa hiện đến trong tâm trí mình.
Những trường hợp điển hình
Mục tiêu đầu tiên của Dự án Stargate là một trung tâm nghiên cứu khoa học bí mật của Liên Xô đặt tại nước Cộng hòa Kazakhstan, mà CIA gọi bằng mật danh là URDF-3 (Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển không xác định số 3). Người tham gia tích cực và quan trọng nhất trong dự án ban đầu này là nhà ngoại cảm Pat Price.
Price được cung cấp thông tin về tọa độ địa lý của mục tiêu. Sau khi "nhập tâm", Price bắt đầu mở công năng tìm kiếm và sau đó mô tả lại là đã nhìn thấy một "hệ thống cẩu khổng lồ". Về sau, một sĩ quan CIA khi phân tích hình ảnh vệ tinh thám báo về trung tâm URDF-3 đã phải kêu lên thán phục vì sự mô tả của Price chính xác đến từng chi tiết nhỏ.
Năm 1976, CIA đã nhờ Stargate tìm kiếm chiếc máy bay của Liên Xô b.ị b.ắn rơi xuống một khu rừng hoang dã ở châu Phi, sau khi mọi nỗ lực truy tìm bao gồm cả hình ảnh vệ tinh đều thất bại. Nhà ngoại cảm Rosemary Smith đã khoanh vùng vị trí trong bán kính một vài dặm. Một nhóm nghiên cứu sau đó đã được gửi đến khu vực được miêu tả và đã tìm thấy.
Một ví dụ khác vào năm 1979 cũng chứng minh năng lực dao thị mà Mỹ theo đuổi là có thật. Nhà thấu thị mã số #1 hay được biết đến với tên Joseph McMoneagle sau khi chìm sâu vào tâm trí đã vẽ lại một tòa nhà thấp màu xám, không cửa sổ với làn khói lưu huỳnh cuồn cuộn bay lên.
Hình ảnh này cũng trùng với những gì nhà thấu thị mã số #29 tham gia vào nhiệm vụ phác họa, cùng với hình ảnh thêm vào là đống linh kiện máy móc kim loại đang bị nung chảy. Cả hai trường hợp đều mô tả trùng khớp với khu phức hợp hạt nhân Trung Quốc ở Lop Nur vốn không nhiều người biết đến.
Còn nhiều trường hợp khác được cho là thành công của Stargate mà nổi tiếng nhất là nhiệm vụ nhìn trộm căn cứ hải quân của Liên Xô cũng vào năm 1979. Khi đó các nhà ngoại cảm của Mỹ mô tả Liên Xô đang chế tạo một thứ vũ khí nào đó trông giống như "cá mập". Sau đó, hình ảnh vệ tinh cho thấy, cơ sở này đang cất giữ tàu ngầm hạt nhân Akula, và Akula cũng có nghĩa là "cá mập" trong tiếng Nga.
Điệp viên ngoại cảm Pat Price (bên trái) và nhà vật lý Hal Puthoff của Học viện Nghiên cứu Stanford (SRI) làm việc vào giai đoạn sau của Dự án Stargate.
Bên cạnh khả năng dao thị, các điệp viên của Stargate còn có nhiều khả năng siêu phàm khác. Có thể kể đến Uri Geller, một nhà ảo thuật bảnh trai người Israel, nổi tiếng với màn trình diễn dùng tư tưởng (sóng điện não) để uốn cong chiếc thìa bằng thép không gỉ.
Là hậu duệ của nhà phân tâm học lừng danh Sigmund Freud, năm 1970 Geller đã làm cả thế giới kinh ngạc vì khả năng siêu nhiên của mình tại các buổi biểu diễn công khai trên sân khấu.
Hai năm sau đó, được sự đồng ý của Cơ quan Tình báo quân đội Israel là Mossad và Cơ quan Tình báo quốc gia Shin Bet, CIA phối hợp với SRI, đã sử dụng Geller với nhiệm vụ dùng sóng điện não để tẩy xóa các nội dung lưu trong những đĩa mềm vi tính lưu trữ tại trụ sở Cơ quan Tình báo Liên Xô (KGB); đồng thời vô hiệu hóa các trạm radar và các lò phản ứng hạt nhân của Syria.
Tuy nhiên, không hề có một bằng chứng nào chứng minh rằng Geller đã thành công trong nhiệm vụ này.
Bên cạnh đó, CIA còn phát hiện Ingo Swann, một nghệ sĩ ở New York có khả năng đặc biệt. Theo tài liệu ghi lại, Swann có thể xác định tọa độ của bất kỳ người nào bằng cách nghe giọng nói của họ. Một buổi tối, SRI bố trí cho Swann ngồi uống rượu cạnh một hồ bơi, và cho anh ta nghe giọng nói của một nhân viên SRI qua băng ghi âm.
Vài phút sau, Swann nói chính xác vị trí của nhân viên này "ở tại kinh độ a, vĩ độ b". Tiến hành xác minh, vĩ độ và kinh độ do Swann cung cấp thì đó là một phòng khách sạn trên tầng 9 tại thủ đô Ryah của Arập Xêút, nơi nhân viên SRI đang ở. Cũng chính Swann là người khai sinh ra phương pháp "Gián điệp tâm linh phối hợp từ xa - gọi tắt là CRV".
Với những thành công trên, Chính phủ Mỹ đã rót 20 triệu USD vào dự án để mở rộng quy mô. Tuy nhiên, càng về sau này, tỉ lệ thất bại trở nên nhiều hơn.
Sau những nỗ lực xác định vị trí của nhà lãnh đạo Libya Muammar Gaddafi vào năm 1986; nơi ở của nhà lãnh đạo Panama Manuel Noriega đã bỏ trốn sau khi Mỹ xâm lược; hay đơn giản hơn là tọa độ các kho vũ khí thông thường cũng mang đến kết quả không tốt - CIA kết luận kỹ thuật này không đáng tin cậy và không đáng để theo đuổi cho mục đích thu thập thông tin tình báo.
Giữa sự hoài nghi ngày càng gia tăng và ngân sách xuống thấp, cộng với bê bối nghe lén Watergate của CIA, Dự án Stargate tan rã vào năm 1995. Năm 2003, 73.000 trang tài liệu về dự án này đã được giải mật, nhưng có tới 17.700 trang tài liệu chưa được phát hành. Đến năm 2017, tất cả tài liệu này đã được công khai.
Theo searchtotal
Vì sao các nước gửi vàng ở Mỹ? Nhiều thập kỷ qua, các quốc gia trên thế giới đã giữ vàng của mình ở Mỹ. Tuy nhiên tình hình đang thay đổi. Năm ngoái Thổ Nhĩ Kỳ đã lấy lại vàng dự trữ từ Mỹ. Đức và Hà Lan cũng làm như vậy. Bây giờ sẽ đến lượt Italia. Có vàng không? Mong muốn của các ngân hàng trung ương tích...