Tinh chất mầm đậu nành: Ngăn ung thư hay gây ung thư?
Đậu nành chứa một hợp chất estrogen tự nhiên tên isoflavone, có nhiều ở phần mầm. Điều này đã gây nhiều tranh cãi quanh ảnh hưởng của chúng lên sức khỏe con người.
Theo Tiến sĩ Omer Kucuk, bác sĩ chuyên khoa ung thư của Viện Ung bướu Winship thuộc đại học Emory, người nghiên cứu công dụng của isoflavone đậu nành, cho biết: “Isoflavone được coi là phytoestrogen, nói cách khác là estrogen thực vật. Isoflavone là một phần trong nhóm hợp chất có lên flavonoid có rất nhiều trong tự nhiên”.
Tinh chất mầm đậu nành được cho là có khả năng “thần kỳ” với nữ giới, như giúp giảm nguy cơ mắc ung thư vú, giảm triệu chứng mãn kinh, giảm loãng xương, tăng cường khả năng tư duy và sức khỏe tim mạch. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu trái chiều về tác động tiêu cực của isoflavone bắt đầu xuất hiện từ những năm 1940, khiến hợp chất này trở thành đề tài của tranh cãi.
Cuộc tranh cãi về tác dụng của mầm đậu nành
Một nghiên cứu năm 1946 đăng trên tạp chí The Australian Veterinary Journal cho thấy cừu ăn cỏ ba lá giàu isoflavone tại Tây Australia gặp các vấn đề về sinh sản. Tác giả nghiên cứu viết: “Vấn đề sinh sản có vẻ hoàn toàn là do nguồn dinh dưỡng. Một khả năng khác là trong cỏ ba lá có chất làm tăng estrogen tự nhiên của chúng hoặc thúc đẩy tạo ra estrogen một cách bất thường”.
Đậu nành và các chế phẩm từ đậu nành được nhiều người ưa dùng. Ảnh: Bulletproof.
Theo nghiên cứu đó, vấn đề vô sinh của những con cừu này có thể là kết quả từ mất cân bằng hormone, gây ra do loại cỏ chúng ăn. Tuy nhiên, điều này mới chỉ được phát hiện ở cừu, chưa phát hiện ở con người.
Hai nghiên cứu trên động vật khác – một trên khỉ vào năm 1986 và một trên chuột vào năm 1987 – cho thấy chế độ ăn nhiều đậu nành khiến lá lách của chúng to ra, và có liên quan tới sự phát triển của ung thư lá lách trên các động vật này.
Trước các công bố này, Khoa Bệnh học Ung thư của Viện Ung bướu Quốc gia Mỹ đã tổ chức một hội thảo nhằm bàn luận về trạng thái của các nghiên cứu về mỗi quan hệ giữa đậu nành và nguy cơ ung thư.
Sau hội thảo, các nhà khoa học tham dự đã xuất bản một báo cáo trên tờ Cancer Research vào năm 1989. Họ viết rằng không có bằng chứng cho thấy thực phẩm không chứa đậu nành có tác động nước lại với lá lách của con người. Thay vào đó, các cộng đồng người có lượng đậu nành cao trong chế độ ăn lại có tỷ lệ ung thư lá lách giảm.
Trong những năm sau đó, các nhà nghiên cứu thường bác bỏ khả năng ngăn ngừa ung thư tiềm tàng của các thực phẩm từ đậu nành. Một trong những nghiên cứu đầu tiên cho rằng đậu nành có khả năng chứa những chất có khả năng chống ung thư, tạo ra tác động tích cực bảo vệ người dùng khỏi ung thư, được đăng tải trên tạp chí của Hiệp hội Dinh dưỡng Mỹ vào năm 1991.
Tuy nhiên, mọi việc thay đổi vào năm 1996, khi một nghiên cứu trên tạp chí Cancer Epidemiology, Biomarkers, & Prevention cho rằng việc tiêu thụ các protein từ đậu nành có thể kích thích sự sinh trưởng của tế bào ung thư vú.
Theo Tiến sĩ Kucuk, tranh cãi quanh việc đậu nành tốt hay không tốt cho ung thư xuất phát từ việc isoflavone trong đậu nành có thể mô phỏng estrogen trong cơ thể người và bám vào các thụ quan estrogen. Ông cho biết: “Cơ thể người có hai thụ quan estrogen: alpha và beta. Alpha là thụ quan xấu. Nếu bám vào thụ quan này, nguy cơ ung thư vú sẽ tăng lên, khiến tế bào ung thư vú phát triển. Nhưng beta thì lại có tác động trái ngược. Isoflavone đậu nành thường có xu hướng bám vào các thụ quan beta”.
Video đang HOT
Ông Kucuk cũng nói thêm rằng các nghiên cứu cho thấy phụ nữ ở những vùng tiêu thụ nhiều đậu nành, như Nhật Bản hay Trung Quốc, có xu hướng có tỷ lệ ung thư thấp hơn phụ nữ ăn theo chế độ dinh dưỡng phương Tây.
Đậu phụ thường có mặt trong bữa ăn của người Nhật. Ảnh: Diarystore.
Tuy nhiên, tranh cãi về mối quan hệ giữa đậu nành và ung thư vẫn tiếp tục. Một nghiên cứu khác trên tạp chí Cancer Research vào năm 2011 cho thấy isoflavone đậu nành có thể kích thích sự phát triển của tế bào ung thư vú lệ thuộc estrogen ở người.
Sau đó, một nghiên cứu khác trên tạp chí Cancer năm 2007 cho thấy không có sự liên hệ giữa đậu nành và ung thư vú. Thay vào đó, nghiên cứu này đề xuất rằng việc tránh tăng cân và giảm thức uống có cồn giúp giảm nguy cơ mắc ung thư vú.
Lợi hay hại?
Các nghiên cứu năm 2004 và 2009 cho thấy việc thay thế thức ăn chế biến sẵn trong chế độ ăn bằng đậu nành có thể giúp tránh tăng cân. Cũng trong khoảng thời gian này, protein và isodlavone từ đậu nành cũng thu hút sự chú ý nhờ có khả năng cải thiện sức khỏe tim mạch.
Một nghiên cứu của Hiệp hội Tim mạch Mỹ (AHA) đăng trên tạp chí Circulation năm 2006 cho thấy “các sản phẩm từ đậu nành có thể có lợi cho tim mạch và sức khỏe nói chung do có mức chất béo chưa bão hòa, chất xơ, vitamin và khoảng chất cao, đồng thời chứa ít chất béo bão hòa”.
Tuy nhiên, đến năm 2008, AHA lại tuyên bố rằng không có đủ chứng cứ cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa đậu nành với khả năng giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh tim.
Theo Jenna Stangland, một chuyên gia dinh dưỡng ở Minneapolis (Mỹ), cho biết: “Đậu nành có các chất chống oxy hóa, giúp giảm lượng LDL hay cholesterol xấu. Chúng không hẳn sẽ giúp tăng lượng cholesterol tốt, nhưng giúp giảm LDL, ngăn ngừa LDL oxy hóa. Khi LDL oxy hóa, chúng sẽ làm tắc nghẽn mạch máu của chúng ta”.
Đến giữa những năm 2000, các nhà nghiên cứu đưa ra thông tin về việc tiêu thụ đậu nành có thể ảnh hưởng tới chức năng của tuyến giáp. Các bằng chứng cho thấy đậu nành có thể can thiệp vào khả năng hấp thụ hormone tuyến giáp tổng hợp thường được dùng để điều trị tình trạng suy giáp. Nhìn chung, bệnh nhân nên chờ khoảng 4 tiếng sau khi uống thuốc tuyến giáp rồi mới sử dụng các sản phẩm đậu nành.
Isoflavone trong đậu nành được chứng minh có thể giúp giảm triệu chứng nóng trong người ở giai đoạn mãn kinh. Ảnh: Daily Mail.
Các nghiên cứu cho thấy isoflavone trong sản phẩm đậu nành có thể góp phần ngăn ngừa một số bệnh ung thư liên quan tới hormone. Chế độ ăn có lượng đậu nành vừa phải trong giai đoạn trước khi trưởng thành có thể giảm nguy cơ ung thư vú và buồng trứng ở phụ nữ.
Bên cạnh đó, một số nghiên cứu cho rằng việc ăn các thực phẩm từ đậu nành có thể giúp giảm bớt một số triệu chứng mãn kinh nhất định, nhưng cũng có không ít nghiên cứu phản bác điều này. Việc dùng thực phẩm hay thực phẩm chức năng cung cấp isoflavone để ngăn ngừa hay điều trị ung thư không được đề xuất.
Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) công nhận vào năm 1999 rằng 25 g protein từ đậu nành mỗi ngày kết hợp với chế độ ăn lành mạnh giúp giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Tuy nhiên, đến cuối năm 2017, FDA lại đề xuất rút bỏ khẳng định này do chứng cứ từ 12 công trình nghiên cứu khoa học và đang trong giai đoạn lắng nghe các ý kiến phản bác.
Các chuyên gia dinh dưỡng cho biết dạng thức tốt nhất của đậu nành là tự nhiên, như sữa đậu, đậu phụ, hoặc đậu nành lên men… Đồng thời, khi sử dụng các thực phẩm hay thực phẩm chức năng nhằm bổ sung isoflavone, người dùng cần chú ý theo dõi phản ứng của cơ thể và tốt nhất nên có sự tư vấn từ chuyên gia y tế.
Theo 2sao.vn
Mang thai có nên uống sữa đậu nành không?
Nhiều người nghĩ "Estrogen trong đậu nành có ảnh hưởng tới đến sinh sản của các bé trai, có thể làm teo tinh hoàn hay gây vô sinh". Có thật như vậy không hãy xem lời giải thích của các chuyên gia hàng đầu nhé!
Tác dụng của đậu nành với bà bầu
Đậu nành và các thực phẩm chế biến từ đậu nành từ lâu được coi là nguồn thực phẩm cung cấp protein dồi dào, rất tốt cho sức khỏe của con người. Protein từ đậu nành có thể cung cấp đầy đủ và cân đối các axit amin cần thiết cũng giống như các nguồn axit amin động vật có trong sữa, thịt, trứng...
Không những thế, trong thành phần đậu nành còn chứa rất nhiều axit béo linoleic, linolenic, omega-3 là những axit béo không no thiết yếu, giúp tăng cường hấp thu chất dinh dưỡng, điều chỉnh huyết áp, giúp làm tăng sự phát triển của các tế bào khỏe mạnh.
Các chất thiết yếu khác như sắt, kẽm, folat, vitamin A, PP, B, D trong sữa đậu nành rất tốt cho sự phát triển của thai nhi, tránh hiện tượng nhẹ cân, sinh non, tránh còi xương ở bé, loãng xương ở mẹ.Bên cạnh đó, trong đậu nành còn có chứa các chất xơ hòa tan và không hòa tan, giúp kiểm soát đường huyết thai kỳ, giảm hiện tượng táo bón ở bà bầu.
Theo các nghiên cứu khoa học mới nhất, đậu nành còn là nguồn thực phẩm thiên nhiên quý giá giúp làm giảm nguy cơ ung thư vú.
Sữa đậu mành có ảnh hưởng đến giới tính thai nhi?
Từ những công dụng vô cùng to lớn từ đậu nành, khi mang thai, bà bầu được khuyến khích nên uống sữa đậu nành.
Về thắc mắc liên quan đến việc liệu isoflavone có hoạt tính estrogen - một loại hormone giới tính nữ trong sữa đậu nành có ảnh hưởng tới giới tính của thai nhi hay không, các nhà nghiên cứu khẳng định chưa có một bằng chứng nào chứng minh được là estrogen trong đậu nành có ảnh hưởng tới đến sinh sản của các bé trai, càng không thể làm teo tinh hoàn hay gây vô sinh như nhiều người nghĩ.
Theo nghiên cứu mới vào năm 2001 của tiến sĩ Daniel Doerge và các đồng nghiệp cho biết, không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy chất isoflavone có trong đậu nành được hấp thụ qua nhau thai người. Và năm 2002, nghiên cứu của tiến sĩ Thomas Badger được đăng trên Tạp chí Dinh dưỡng Mỹ cho biết nghiên cứu trên những trẻ em sử dụng sữa công thức làm từ đậu nành (những đứa trẻ được coi là sử dụng nhiều sữa đậu nành nhất so với trẻ em khác tại Mỹ) cũng không thấy bất cứ dấu hiệu có hại nào tới sức khỏe của chúng.Như vậy các mẹ có thể hoàn toàn yên tâm khi lựa chọn sữa đậu nành là thức uống hằng ngày của mình.
Uống bao nhiêu ly sữa đậu nành/ngày là đủ?
Sữa đậu nành là sản phẩm chế biến từ đậu tương, là loại thực phẩm thiên nhiên, có giá trị dinh dưỡng cao, mùi vị thơm ngon, dễ uống, dễ hấp thụ. Theo nghiên cứu của Đại học Y Đại Học Y Khoa Tuft - Hoa Kỳ, không nên bổ sung vào cơ thể quá 100 mg isoflavone (isoflavone là chất chống oxy hóa, có rất nhiều trong đậu tương) mỗi ngày.
Ở mức 35 - 55 mg isoflavone mỗi ngày được cho là an toàn. Theo đó thì một cốc sữa đậu nành có chứa khoảng 50 mg isoflavones và khoảng 6 gam protein đậu tương.
Một số lưu ý khi uống sựa đậu nành
Sữa đậu nành cần được đun sôi kỹ, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm để tránh gây hiện tượng buồn nôn, đau bụng, tiêu chảy khi uống sữa đậu nành.- Không nên ăn cam, quýt trước hoặc sau khi uống sữa đậu nành vì axit có thể kết hợp với protein của đậu nành gây kết tủa ở ruột, gây đầy đụng, khó tiêu hoặc tiêu chảy.
Tránh bỏ trứng gà vào uống chung với sữa đậu nành vì albumin của trứnggà kết hợp với trypsine có trong đậu nành sẽ tạo ra những chất khiến cơ thể khó hấp thu, làm giảm giá trị dinh dưỡng
Những trường hợp không nên uống sữa đậu nành
Tuy sữa đậu nành rất tốt cho sức khỏe nhưng nếu bạn thuộc vào những trường hợp sau đây thì không nên uống sữa đậu nành khi chuẩn bị mang thai:
Người bị bệnh đau dạ dày khi uống sữa đậu nành sẽ kích thích dạ dày bài tiết axit gây đau bụng, khó chịu, buồn nôn. Người bị các bệnh gout, bệnh thận, ung thư vú cũng không nên uống sữa đậu nành vì nó có thể khiến bệnh trở nặng hơn.
Như vậy, việc uống sữa đậu nành không hề ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản như nhiều người vẫn nghĩ. Do đó, thay vì tin vào các thông tin truyền miệng không chính xác, các ông bố bà mẹ tương lai vẫn hoàn toàn được hưởng thụ những giá trị dinh dưỡng tốt của sữa đậu nành.
Theo www.phunutoday.vn
5 loại thực phẩm chuyên gia khuyên bạn nên ăn hàng ngày để giảm stress Nhiều người thường có xu hướng ăn nhiều đồ ngọt khi bị stress, nhưng điều đó được các chuyên gia khuyến cáo là không tốt. Các chuyên gia khuyên để thoát khỏi tình trạng này các bạn hãy nhâm nhi những thực phẩm dưới đây. Ăn đồ ngọt khi bị stress có thể làm cho bạn căng thẳng? Nhiều người trong chúng ta...