Mắm – Một món ăn dân dã khó quên.
Ngày còn nhỏ tôi đọc tác phẩm Rừng Mắm của nhà văn Bình Nguyên Lộc mà tôi cứ ngỡ ông muốn ít nhiều nói về những món mắm miền Nam ê hề.
Nhưng thật sự không phải vậy, truyện nói về cây mắm mọc lên hằng hà sa số. Nó tạo ra sự ích nối tiếp về sau qua câu chuyện trao đổi giữa hai ông cháu như sau.
“Bờ biển nầy mỗi năm được phù sa bồi thêm cho rộng ra hàng mấy ngàn thước. Phù sa là đất bùn mềm lủn và không bao giờ thành đất thịt được để ta hưởng nếu không có rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất. Một khi kia cây mắm sẽ ngã rạp. Giống tràm lại nối ngôi mắm. Rồi sau mấy đời tràm, đất sẽ thuần, cây ăn trái mới mọc được. Thấy thằng cháu nội ngơ ngác chưa hiểu, ông cụ vịn vai nó mà tiếp:
- Ông với lại Tía của con là cây mắm, chơn giẫm trong bùn. Đời con là tràm, chơn vẫn còn lấm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần rôị̀ Con cháu của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau. Đời cây mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính ngoài mặt trận vậy mà. Họ ngã gục cho kẻ khác là con cháu của họ hưởng…
Ông nội vui vẻ quá, vì ông bỗng sực nhớ lại những câu hò của thế hệ người tiên phuông đi khai thác đất hoang ở miền Nam, mà ngày nay thế hệ tràm không hát nữa. Ông cất giọng khàn khàn lên:
Hò… ơ… Rồng chầu ngoài Huế,
Ngựa tế Đồng Nai
Nước sông trong sao cứ chảy hoài,
Thương người xa xứ lạc loài đến đây.”
(Bình Nguyên Lộc)
Tuy vậy, bài văn có nhắc đến món Ba Khía và Bồn Bồn. Bồn bồn ở miệt Cà Mau rất nhiều, người ta dùng làm dưa, gọi là dưa Bồn Bồn. Còn Ba Khía và Còng được làm mắm. Trong tinh thần văn chương ẩm thực về các món mắm, những đặc thù của vùng đất miền Nam, bài viết sẽ lạm bàn về mắm, và dỉ nhiên trong tầm hồn yêu mắm. Theo nhà văn Sơn Nam thì ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có rất nhiều loại mắm: mắm cá lóc, cá rô đồng, cá trê vàng ở miệt rừng U Minh, Cà Mau, mắm Thái Châu ốc, tôm chua Gò Công… Ta có thể kê khai những thổ sản đặc sắc của miền Nam như Mắm còng, mắm tôm chà, ba khía . . . Hãy nói về Ba Khía đi nhé.
Ba Khía:
Ba Khía là loại sinh vật sống ở bến bãi, sông rạch trong rừng ngập mặn, hình dạng giống con cua; lớn hơn con còng, trên cái yếm màu nâu sẫm của nó có ba cái khía, tức 3 gạch nên người ta cho nó cái tên cúng cơm là Ba Khía. Từ miệt Sóc Trăng về Bạc Liêu xuống tận mũi Cà Mau, men theo những cánh rừng mắm đen mọc giáp biển là những vùng có lắm Ba Khía. Từ tháng tám trở đi, lúc mùa màng đã xong, người quê lại rủ nhau chèo ghe đi bắt Ba Khía. Người bắt Ba Khía phải canh theo con nước, lúc nước lớn, Ba Khía bám đầy thân cây mắm, như Bình Nguyên Lộc đã đề cập ở trên. Vào khoảng tháng mười là mùa Ba Khía sinh sản nhiều vô số kể. Đi bắt Ba Khía rất vui vì phải đi ban đêm, bởi vào tối khuya Ba khía di chuyển chậm chạp, mình thò tay là chộp dính ngay vài chú thiếm ba khía. Mỗi bận đi bắt như vậy ghe trở về với những khạp đầy Ba Khía. Người biết rành về Còng và Ba Khía thì tháng năm hàng năm thì Ba Khía cái có trứng đeo đầy sau yếm, các thiếm Ba Khía mập mạp, đô con và chắc thịt.
Ba Khía mang về đem ngâm nước, rửa thật sạch đất bùn. Sau đó mới gỡ bỏ mai, bẻ đôi thân ba khía, cả càng, gọng cũng bẻ rời, đem trộn tất cả vào gia vị như tỏi, ớt, đường, chanh hoặc dùng khóm bằm nhuyễn, xong ngâm hổn hợp một buổi cho ba khía thật thấm. Khi vị Ba Khía được đầy đủ độ mặn, chua, ngọt thì Ba Khía sẽ ngon và dịu khi ta thưởng thức. Cách ăn Ba Khía là tách yếm làm đôi rồi bẻ nhỏ ngoe, càng Ba Khía ra để chiêm ngưỡng gạch son, rưới lên cơm phần nước đã có trong yếm trộn chung. Vắt thêm ít chanh tươi trước khi ăn, mà ăn Ba Khía phải ăn với cơm nguội mới đúng điệu đồng quê, và đừng quên nhai thêm vài trái ớt hiểm, vài tép tỏi, vài lát gừng sống vừa nhai cho âm ấm bụng – huhu… để mắt nhòa lệ vì nồng độ cay cay dâng tràn bờ mi quyện vào mùi thơm nhớ đời Ba Khía.
Mắm Còng:
Bàn về món mắm Còng, theo Giáo sư Trần Văn Chi viết trong bài “Hương vị Miền Nam: Mắm Còng”, đất rẫy là đất vào mùa khô bị ngập mặn bởi nước biển tràn vào, chỉ làm ruộng hay trồng trọt được vào mùa mưa, như vùng ven biển Gò Công, Bến Tre. Con Còng ở Gò Công kêu là “Còng quều”, thuộc loại cua, rạm, ba khía, cua đồng… Còng nhỏ hơn cua biển, cỡ ngón tay cái người lớn, có màu tìm sậm…
Còng ở Gò Công thì nhiều vô kể. Trời bắt đầu “mưa già” một chút thì Còng không biết ở đâu xuất hiện ở ruộng rẫy nhiều vô số, thấy phát sợ… Nhiều người Gò Công nghe nói tới mắm Còng là phải chảy nước miếng! Và cũng không ít dân Gò Công chưa ăn món mắm Còng, hoặc chưa biết, chưa nghe tên món mắm Còng, dầu đó là món ngon độc đáo, đã nổi tiếng là “món ngon tiến cung, với tên gọi gắn liền với địa danh Gò Công. Con Còng lột đem làm mắm gọi là mắm Còng, chỉ có ở Gò Công và Bến Tre và đã từ lâu món nầy được lưu truyền trong dân chúng, được liệt kê vào bản món ngon quý hiếm từ thời bà Từ Dũ. Cứ vào mùa Tết oan Ngọ thì con Còng bắt đầu bỏ lớp vỏ cứng, lột xác thành con Còng lột. Mỗi năm chỉ có một lần, vào đúng ngày mùng 5 tháng 5 Âm Lịch, Còng lột rộ, người địa phương gọi là ngày hội Còng lột. Còng sau khi được rửa đi rửa lại bằng nước sạch; phải chích bỏ yếm, bỏ miệng và mắt, lấy cho hết “bọng cứt”… nghĩa là các chất dơ trong bụng Còng, thì con mắm mới ngọt, nước mắm mới trong. Nhớ phải cho Còng “uống rượu”, nghĩa là ngâm với rượu đế, khử mùi tanh.
Vớt Còng ra, để cho ráo rồi nhẹ tay, Mẹ tôi sắp từng con Còng vào hũ thật đầy và gài chặt bằng lớp lá vông và mấy que ổi…. Mắm cuối cùng được chan bằng nước mắm ngon nấu với đường, để nguội. Trời Tháng Năm nắng gắt, phơi độ trên mươi ngày là hũ mắm bắt đầu nghe mùi thơm, có thể ăn được rồi… Mở nắp hũ nghe mùi thơm độc đáo không thể tả, nhìn lớp bọt li ti nổi trên mặt, màu nước mắm trong veo, màu con mắm Còng tím sậm… bạn sẽ biết được hũ mắm ngon cỡ nào. Trúc hũ mắm ra thau, trộn thêm phu gia như tỏi, ớt, đường và khóm bằm nhuyễn. Khóm là chất xúc tác giúp cho gia vị thấm vào con mắm và làm cho mắm Còng mặn mà dịu và ngon như ý. Nhớ mắm trộn xong gia vị phải để “cách nhựt”, ngày hôm sau, mắm mới thấm, và ăn mới ngon. Theo Giáo sư Xuân Tước kể về Đặc Sản Quê nhà, ông đề cập về món mắm Còng như sau:
Người ở vùng sông Cửu Long thường hát:
“Gió đưa gió đẩy, về rẫy ăn Còng,
Về sông ăn cá, về giồng ăn dưa”.
Rẫy là một vùng đất miền nước mặn. Ở các vùng Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh, người ta thường làm rẫy, trồng nhiều loại rau cải, thơm khóm, và cũng là vùng sinh sống lý tưởng cho các loại Còng…
Mắm Còng món ăn thượng hảo hạng của xứ Gò Công. Gò Công là một vùng đất nằm theo vùng biển và miệt sông Cửa Tiểu. Xứ Gò Công rất nổi danh vì đây là vùng quê cha của đại thần nhà Nguyễn là ông Phạm Đăng Hưng. Nhà họ Phạm gã con gái cho vua Thiệu Trị về sau này là Thái Hậu Từ Dũ, mẹ của vua Tự Đức. Vì ở gần biển nên các vùng đất Gò Công là nơi sinh sống của nhiều loại Còng. Nhưng đáng giá nhất là Còng đỏ. Loại Còng này thân đỏ, chân và càng cũng màu đỏ ửng xanh. Chúng lớn bằng chừng chân cái của chúng ta và là nguồn sản xuất mắm Còng, một loại mắm đặc sản của các vùng biển và rất hiếm có. Không phải nơi nào cũng có thể làm mắm Còng. Hai nơi quan trọng là vùng biển Gò Công và Bến Tre, nhưng Gò Công có nhiều Còng đỏ hơn Bến Tre. Không phải mùa nào cũng có thể làm mắm Còng. Thấy Còng nằm đỏ bãi sông, nhưng không ai bắt Còng chắc mà làm mắm, chỉ bắt Còng lột mà thôi. Và mỗi năm Còng chỉ lột có một lần vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch. Đến ngày này, người dân Gò Công đi bắt Còng lột. Mà là những trũng nước nhỏ để Còng vùi mình xuống đó mà lột. Người ta quậy nước muối sẵn, rồi chống xuồng theo bờ sông, bờ lạch, nhìn chỗ nào có Còng là ghé lại, bắt một con Còng mềm nằm dưới. Còng lột được bỏ vào nước muối có pha đường để ngâm. Khi Còng đã thấm mặn thì người ta đem phơi nắng. Thường có hai cách để làm mắm Còng:
- Còng lột được rửa sạch, đong 10 chén Còng thêm 1 chén tỏi ớt. Cho vào cối quết cho dập, sau đó nhận vào hũ, trộn thêm rượu để cho hết mùi khai nồng. Đem phơi chừng 3 ngày cho được nắng, rồi lấy nước cốt Còng đem phơi cho quánh lại thì dùng được. Lúc dọn ra ăn thì trộn Còng với chanh, khóm, đường, tỏi, ớt.
- Còng lột được rửa sạch để cho ráo nước, trụng với nước sôi nếu muốn khử trùng, đong hai chén Còng, một củ tỏi, mười trái ớt. Tất cả trộn chung rồi cho vào hũ, đem phơi nắng cho thấm đều. Muốn ăn, nêm chanh, khóm, đường, tỏi ớt.
Từ miền quê Gò Công, Bến Tre đến các vùng chợ, mắm Còng được mọi người ái mộ. Ở đâu muốn ăn mắm Còng cho ngon, cũng phải trộn với thịt ba rọi hay thịt nướng và ăn với nhiều rau sống, như: húng cây, húng lũi, tía tô, kinh giới, dấp cá, quế, gừng và ớt. Mắm Còng mà ăn với bún thì ngon tuyệt. Ở vùng quê hay các vùng chợ thuộc miền Nam Việt Nam, mắm Còng còn có hương vị đậm đà của quê hương. Màu bún trắng, mắm Còng màu thâm, tía tô màu tím, rau húng màu xanh… trộn với một chút mắm Còng thơm phức, người ta thưởng thức được hương vị đậm đà của quê hương.
Video đang HOT
Mắm Tôm Chà:
Nghề làm mắm Tôm Chà xuất hiện từ đầu thế kỷ 19. Lúc sinh thời, bà hoàng Từ Dũ cùng gia đình đã chế biến và giới thiệu món này cho triều đình nhà Nguyễn. Bà Từ Dũ nhủ danh Phạm Thị Hằng – con gái của Quốc sử quán Tổng tài Phạm Đăng Hưng được tiến cung năm 1824 và sau đó đã trở thành đức Thái hậu Từ Dũ, vợ của vua Thiệu Trị, mẹ của vua Tự Đức. Do hương vị đặc trưng từ Gò Công của Hoàng thái hậu mà được triều đình Huế thường dùng để tiếp đãi khách trong các buổi yến tiệc, những dịp lễ lạc. Món mắm Tôm Chà đã chào đời vào khoảng 200 năm.
Mắm Tôm Chà khi biến chế người ta dùng tôm đất hay tôm bạc thẻ ở sông, hay có thể thế bằng tôm sú (tôm vùng biển) miễn còn tươi, nếu còn sống càng tốt, cho vào thau ngâm với rượu đế khử mùi tanh chừng 5, 7 phút. Sau đó vớt ra để ráo rồi bỏ vào máy xay thật nhuyễn, sau đó đem chà trên ray có lỗ thật nhỏ để chắc lấy nước, phần vỏ và thịt được bỏ đi. Nước tinh chất của tôm được đệm thêm vào đường, muối, ớt bột, tỏi rồi đem phơi ít nhất một tuần dưới ánh nắng để cho sản phẩm đặc kẹo lại mới dùng được. Thông thường thì cứ ba ký tôm mới làm ra được 1 ký mắm Tôm Chà mịn màng thơm dịu.
Mắm Tôm Chà có thể dùng nguyên chất hoặc có thể pha thêm tỏi, ớt băm nhuyễn, đường, chanh tùy khẩu vị và được dùng với bún, thịt luộc, rau sống, khế, dưa leo, chuối chát, xoài sống thái lát. Khi ăn quệt thịt, soài lát vào hổn hợp mắm tôm cùng bún và rau. Trong Thú ăn chơi Tản Đà tiên sinh đã viết: “Tôi có qua chơi vùng nhà quê Long Xuyên, cùng ăn bữa cơm nhà một ông Chánh tổng, nhiều thứ mắm thiệt ngon”. Do vậy, xin kể ra vài loại mắm đặc trưng nữa:
Cá Linh còn có thể làm mắm. Cá làm sạch, cho vào hũ ướp muối, ba ngày sau dùng vỉ tre gài chặt xuống. Một tháng sau, vớt ra trộn thính vào rồi cho vào hũ gài chặt như trước. Một tháng sau, lại vớt ra cho đường vào , rồi đổ vào hũ gài chặt lại. Thêm một tháng nữa là mắm có thể dùng được. Mắm Cá Linh có thể ăn vơi bún hoặc cơm, hay làm mắm kho với cá, tôm, thịt ba rọi thái mỏng và cà tím.
Mắm Cá Trèn được xem ngon hơn mắm Cá Linh. Mắm Cá Trèn ăn vơi bún, thịt ba rọi luộc và rau sống.
Mắm Thái:
Mắm Thái được làm bởi cá lóc loại to, thịt nhiều được thái filet. Cá được ngâm muối. Mắm ngon thông thường là mắm có mùi thơm dịu, thịt ửng hồng không cứng quá cũng không mềm nhũng. Trung bình mất khoảng 6 tháng đến 1 năm. Sau đó mắm được chao đường, chọn đường thốt nốt thắng cho có chỉ rồi thêm gia vị là lúc màu sắc, hương vị được định độ ngon của con mắm. Dùng mắm lóc filet bỏ da, tách xương, thái thành sợi, màu thính phải tươi, hạt thính nhuyễn, đường thắng kẹo sệt có màu vàng đỏ. Đu đủ trộn với mắm phải là đu đủ mới, còn xanh, bỏ vỏ và hột, bào thành sợi mỏng, muối mặn để khoảng 10 ngày cho hết mùi, xả sạch. Tỷ lệ thịt và đu đủ 50/50, sao cho sợi mắm không bị nhão, có vị bùi của mắm, vị ngọt, dòn của đu đủ.
Mắm ruột là mắm được làm từ ruột cá lóc. Cá được chọn để chế biến món mắm phải là loại cá lóc to, ngon nhất là loại cá lóc có trứng mang sắc vàng ươm. Cá được làm sạch phần bao tử và ruột non của cá. Sau khi làm sạch ruột cá xong, ruột cá được rửa sạch, ngâm nước muối. Cách pha nước muối cũng là một kỹ thuật, vì sau khi pha độ 2 – 3 ngày, ruột cá phải thấm mặn đến tận bên trong để mắm mới không bị hư. Sau đó vớt ruột cá ra để cho thật ráo nước và đem trộn với thính, rồi cho vào hủ ém thật chặt. Kế đến chế nước mắm nhỉ lên trên mặt, phải là nước mắm nhỉ mới cho hương thơm đậm đà. Người ta thường ướp ruột cá và nước mắm trong vòng một tháng, sau đó đem chao với đường thốt nốt được thắng vàng, đến khi nguội thì hương vị của món mắm ruột tỏa ra rất thơm. Để có hủ mắm thật ngon, trung bình phải mất 4 tháng. Nguyên liệu dùng để ăn kèm là xà lách, húng cay, khế, chuối chát, ớt sừng trâu, đu đủ và củ riềng thái sợi nhỏ, thịt ba rọi luột thái mỏng, bánh tráng, bún và sau cùng là một chén nước mắm chua chua ngọt ngọt thật cay. Mắm ruột cũng như mắm lóc thái ăn với bún, hoặc cuốn bánh tráng tùy sở thích.
Mắm xé:
Mắm xé ngon nhất là mắm cá sặt, mắm cá lóc… Ngày xưa khi tôi được dịp ghé thăm các tỉnh miền Tây, bà con hay bạn bè mời ăn món bình dân nhưng độc đáo này. Bên cạnh dĩa mắm xé có đĩa rau sống, dưa leo, xoài bằm, khóm, mít non, khế, chuối lát cắt lát… đừng quên ớt hiểm thật cay vị giác. Khi ăn vào hổn hợp của vị chua, chát, ngọt, cay thấm vào làm dịu mắm cá.
Mắm Kho:
Mắm cá sặc hoặc mắm lóc được nấu tan trong nước dậy mùi sả băm, tỏi phi vàng. Nồi nước lèo được thêm vào thịt heo hay heo quay, cá bông lau hay cá catfish, tôm, mực, cà tím… Vị cá mắm thấm ngấm vào cá, tôm, mực và thịt. Mắm kho ngon nhờ rau ghém như rau sống, rau đắng, bắp chuối, ngó sen, rau muống chẻ, giá, bông súng, bông so đũa, bông điên điển, xoài sống… Mắm kho ăn với cơm hoặc bún.
Lẩu mắm như món mắm kho nêu trên về cách làm. Nước lèo được đặt trên nồi lẩu để giữ độ sôi sục liên tục. Thịt, cá, tôm, mực là đồ để thực khách nhúng vào nước lèo. Lẩu mắm cần nhiều rau như các loại ở quê nhà: đọt rau nhút, rau dừa, bông so đũa, bông súng, bông điên điển, bắp chuối… và đậu rồng, đậu bắp, chuối chát, khế, xoài chua. Món này nên ăn với bún, hoặc cuốn bánh tráng
Mắm Ruốc là mắm làm từ con ruốc, một loại con tép riu, màu đỏ nâu, đặc mịn, thơm mùi mắm, mắm ruốc có nhiều ở miền trung hay Vũng Tàu. Tuy Mắm Ruốc trông giống mắm tôm, nhưng màu sắc và mùi vị không giống mắm tôm. Mắm Ruốc không tanh bằng mắm tôm, có thể pha thêm nước, chanh, đường tỏi ớt khi làm nước chấm và có thể dùng làm gia vị xào hay nấu, như mắm ruốc xào thịt ba rọi với sả ớt.
Trong suốt bài này, Mắm được trình bày như món ăn truyền thống đặc sắc của người miền Nam. Vì các loại Mắm được trích dẫn hay bàn luận xuất phát từ miền đồng bằng sông Cửu Long. Thức ăn hay ẩm thực là một khía cạnh của văn hóa. Như vậy Mắm là một di sản văn hóa dân tộc vậy, nó phản ảnh từ nơi xuất phát rồi lan đi khắp năm châu, cuốn theo làn sóng và cuộc sống lưu lạc của người Việt Nam ly hương ngày nay. Thật vậy, mắm là di sản quê hương.
Ẩm thực những món mắm miền Tây ngon nức tiếng
Những món mắm miền Tây ngon nức tiếng nổi danh khắp cả nước là một trong những nét đặc biệt của ẩm thực vùng sông nước.
Vùng đất du lịch miền Tây với kênh rạch chằng chịt, sông nước bao quanh từ lâu đã được mệnh danh là "vương quốc mắm". Nơi đây không phải chỉ có những làng nghề đã được hình thành từ khá lâu đời mà còn là địa điểm sản xuất các loại mắm cá hàng đầu ở miền Nam với số lượng thành phẩm hàng chục ngàn tấn mỗi năm và xuất bán ra nhiều thị trường khác nhau.
An Giang Châu Đốc được mệnh danh là vương quốc mắm miền Tây lớn nhất.
Được biết đến nhiều phải kể đến mắm ruột cá lóc, mắm tép Cà Mau , mắm cá đồng; mắm rươi Trà Vinh; mắm còng Bến Tre; mắm sặt Đồng Tháp Mười; mắm cá linh (chỉ có vào mùa nước nổi) ở các tỉnh An Giang, Đồng Tháp; mắm bò hóc của người Khmer ở Trà Vinh, Sóc Trăng. Mắm cá trèn hay mắm thái ở Châu Đốc cũng nổi tiếng vô cùng. Các món mắm miền Tây vô cùng đa dạng và phong phú từ các loại cá khác nhau đến cách chế biến muôn hình vạn trạng. Về cơ bản thì có hai cách ăn mắm cơ bản là mắm sống và mắm chín.
Mắm sống khó ăn nhưng gây nghiện
Ăn món mắm miền Tây sống tức là thưởng thức món ăn đặc trưng này không qua chế biến hay nấu nướng. Dù có vẻ khó ăn nhưng đây lại là món dễ gây nghiện với những ai đã phải lòng hương vị của món ăn đặc biệt này. Mắm ăn sống rất đa dạng về chủng loại, nhưng được người dân địa phương và du khách du lịch miền Tây đánh giá cao và bình chọn là ngon nhất là mắm cá chốt, mắm thái cá lóc, mắm cá linh, cá rô, cá sặc, cá trê, đặc biệt nhất là món mắm tép và mắm ba khía.
Mắm miền Tây sống thường ăn kèm nhều loại rau thơm, khế, chuối chát.
Mắm thái cá lóc
Mắm lóc còn sống được chế biến bằng cách xắt thịt con mắm rồi ướp thêm đường, thêm ít tỏi trộn với đu đủ mỏ vịt bào nhỏ và được gọi là mắm thái. Để ăn được món mắm thái ngon nhất thì nên đến "Thủ phủ mắm" Châu Đốc vì nơi đây có cách làm mắm nói chung và mắm thái nói riêng vô cùng nổi tiếng, không nơi nào sánh bằng. Nếu có dịp du lịch An Giang đừng quên ghé và thưởng thức món ngon tuyệt phẩm này nhé.
Mắm lóc được mệnh danh là vua của các loại mắm miền Tây.
Mắm cá linh, cá chốt
Cá linh là loại cá chỉ xuất hiện khi nước nổi về. Cá linh non (hay còn gọi là cá linh đầu mùa, về theo con nước lũ) thì được dùng để kho mía, nấu canh chua bông điên điển,... Cá linh già (có vào cuối mùa, cỡ lớn hơn) thì được dùng làm mắm.
Mắm cá linh là món mắm miền Tây được yêu thích bậc nhất trong ẩm thực Nam Bộ.
Mắm cá linh, cá chốt sau khi được ướp muối sẽ được để một thời gian rồi trộn với thính và chao qua đường vàng hoặc mật ong. Khi mắm vừa "tới", tức là đã thấm gia vị có mùi thơm đặc trưng thì dở mắm ra ăn sống với cơm, hoặc với khoai lang luộc là đã có một bữa ăn ngon lành. Người miền Tây hay dùng trái bần chua ăn kèm với con mắm sống để món ăn trung hòa, ngon miệng hơn. Có nơi còn hay chấm món mắm miền Tây này với nước cốt làm từ chanh, tắc và không thể thiếu ớt hiểm, ít lát gừng, tỏi để át đi phần nào mùi mắm.
Ăn mắm sống cá chốt không thể thiếu trái bần chua.
Mắm tép
Mắm tép đã đến độ vừa ăn thường được trộn với đu đủ mỏ vịt, củ riềng và một số gia vị khác rồi để thêm một hai ngày cho mắm chua sẽ trở thành món ngon của ẩm thực miền Tây của các tỉnh Bến Tre, Tiền Giang, Cà Mau, Trà Vinh,... Một số vùng gọi món này là nem mắm.
Nem mắm được gói thêm rau sống gồm các loại đọt đu đủ non, chuối, khế, trái sung, trái gòn non và trái ớt hiểm rồi cuốn lại một cuốn to. Đây là cách ăn quen thuộc đã trở thành dấu ấn ẩm thực dân gian của người xa xứ đến miền Tây Nam Bộ lập nghiệp. Ngày nay, người ta thường dùng bánh tráng thay vì dùng đọt đu đủ no để gói nem mắm. Theo nhà văn Sơn Nam, mắm tép Cà Mau có màu đỏ au rất bắt mắt, vừa nhìn đã thích, lại còn có mùi thơm nồng của gừng quyện vị cay của ớt và vị mặn của nắng vùng biển.
Đu đủ mỏ vịt trộn mắm tép - một món mắm miền Tây ngon tuyệt.
Mắm ba khía
Mắm ba khía cũng là một món mắm miền Tây có cách ăn thú vị. Người ta thường xé nhỏ con ba khía đã làm thành mắm ra rồi trộn với nước cốt chanh, đường, ớt, tỏi, gừng,.... Sau đó để một thời gian cho mắm vừa thấm. Ăn mắm ba khía đúng điệu thì phải dùng tay bốc mắm đã ướp nhai thành tiếng rau ráu cùng với khoai lang nấu hay củ chuối luộc hoặc cơm, đặc biệt là cơm nguội mới ngon.
Mắm ba khía là loại mắm được làm chủ yếu từ con ba khía, một loài họ cua đặc trưng ở vùng Nam Bộ.
Mắm ruột
Mắm ruột là một loại mắm miền Tây được làm hoàn toàn bằng ruột cá lóc đồng mà phải là con cỡ vừa đến lớn mới ngon và đủ độ béo. Do cá lóc đồng ngày càng hiếm có khó tìm, ở chợ hiện này chỉ còn cá lóc được nuôi nên càng khó tìm được ruột cá lóc đồng tự nhiên. Món mắm ruột cùng vì thế mà khá đắt tiền. Ngay mắm cá lóc đồng tự nhiên đã khó kiếm, mắm ruột cá lóc đồng càng là cực phẩm vì số lượng hạn chế.
Mắm chín và những biến tấu độc đáo
Lẩu mắm
Mắm cá linh, cá sặt sau khi nấu sôi lên sẽ được lọc bỏ xương rồi lấy phần nước. Cho các loại gia vị để khử mùi mắm như tỏi băm, sả, ớt vào nồi đảo lên cho vàng đều, tiếp tục cho thịt ba chỉ đã xắt lát vừa ăn vào xào thơm và đổ nước mắm vào. Cuối cùng nấu sôi lên, nêm một ít đường, bột ngọt hay bột nêm là đã có một món ngon miền Tây hấp dẫn bao thực khách. Một bí quyết để mùi mắm dịu, có vị ngọt tự nhiên là lấy một nắm sả đập dập bỏ vào nấu chung với nước lẩu.
Tất cả nguyên liệu vừa làm xong nên được đưa sang một nồi lẩu nhỏ, để lửa liu riu. Khi ăn bạn mới cho cá vào trần để nồi nước lẩu mắm có vị ngọt, rồi vớt ra dĩa để tránh cá bị nát. Vừa thường thức lẩu mắm đậm đà vừa tiếp tục bỏ cà tím, khổ qua (cắt miếng vừa ăn) và các loại rau là bữa ăn yêu thích của người miền Tây và du khách nhiều nơi khi đến du lịch miền sông nước.
Nguyên liệu làm nên món lẩu mắm trứ danh miền Tây.
Màu nâu cùng hương thơm đặc trưng từ các món mắm miền Tây quen thuộc như mắm cá linh, cá sặc hòa quyện cùng chất nước sanh sánh, thơm đậm vị nhờ tỏi ớt băm nhuyễn kết hợp với sả, vị ngọt từ thịt, các loại hải sản như tôm, mực và các loại cá tươi như cá lóc cùng đĩa rau miệt vườn xanh mướt đã tạo nên một món lẩu mắm dân dã đậm chất trong ẩm thực miền Nam.
Bún mắm
Cùng với lẩu mắm, bún mắm cũng là món ăn được du khách chọn lựa khi về miền Tây. Hiện nay, các món ăn này đã trở nên vô cùng phổ biến, trở thành một đặc sản trong các quán ăn, từ bình dân cho đến các nhà hàng cao cấp và nằm trong list món ăn yêu thích của nhiều người. Qủa thật, món ăn chế biến từ món mắm miền Tây đã có vị trí như một món ăn ngon không thể thiếu trong văn hóa ẩm thực vùng miền.
Nước dùng của món bún mắm có thể được tận dụng từ món lẩu mắm có sẵn hoặc nấu mới với cách nấu tương tự nhưng mang vị vừa ăn hơn. Người ăn bún mắm có thể kết hợp nước dùng cùng bún, cá lóc hấp, heo quay, tôm, mực,... để có được bát bún mắm thơm ngon, đậm đà mà đủ vị.
Bún mắm miền Tây chính hiệu khiến bao người con xa quê nhung nhớ vị ngon quê nhà.
Người dân ở những tỉnh Nam Bộ khác nhau như Cần Thơ, Sóc Trăng, Cà Mau,... đã biến tấu món lẩu mắm, bún mắm theo nhiều kiểu khác nhau mang nét độc đáo với các nguyên liệu đặc trưng chế biến từ cá đồng, cá sông, nhưng vẫn không quên kết hợp các loại rau sẵn có trong vườn nhà mình từ hoa bí, so đũa, bông súng đến cù nèo, rau đắng, rau muống hay cải xanh, đậu rồng,...
Mắm chưng
Mắm chưng là một trong những món mắm đã qua chế biến thông dụng nhất của người miền Tây Nam bộ. Đây cũng là món ăn quen thuộc trong mâm cơm gia đình vùng sông nước. Có hai cách chưng mắm miền Tây quen thuộc là để nguyên con và bằm nhuyễn con mắm đem chưng với hột vịt.
Mắm chưng cá lóc
Những con mắm lóc cỡ cườm tay đặt nằm khoanh tròn trong một cái tộ lớn rồi cho thêm hành tím và hành lá xắt nhuyễn, thêm ít tiêu xay, ớt, tỏi, gừng xắt lát và chút đường, bột ngọt rồi cho tộ mắm vào nồi cơm đang nấu trên bếp lửa vừa mới chắt nước, nhớ đậy kín nắp. Khi cơm chín thì mắm cũng vừa đượm vị thơm nồng.
Mắm chưng ăn cùng cơm và đĩa rau muống hay đọt nhãn lồng luộc hoặc các loại rau sống quen thuộc trong hay quanh nhà như chuối chát, khế chua, rau càng cua, năng, đọt xoài, cù nèo, bông lục bình, bông súng... thì rất ma hết cơm hết gạo, nhất là vào những ngày mưa dầm.
Mắm chưng cá lóc là món ăn vô cùng hao cơm.
Mắm cá sặt bần chua
Với mắm làm bằng các loại cá nhỏ hơn, nhất là cá rô, cá sặc thì khi chưng phải bằm con mắm thật nhuyễn và nêm thêm ít bột ngọt, đường cùng gia vị cay nồng như ớt, tiêu, hành củ, tỏi cho giảm mùi mắm và tạo vị thơm. Có nơi mắm được trộn với thịt ba rọi hay gan heo bằm nhuyễn. Bước tiếp theo là đập vài trứng hột vịt vào tô mắm và dùng đũa khuấy thật đều. Kế đó hấp cách thủy tô mắm, sau một thời gian nên dùng đũa xăm thử để biết mắm đã chín kỹ chưa. Lưu ý trong qua trình hấp mắm là thỉnh thoảng nên mở nắp nồi để xả hơi nước đọng, tránh nước nhỏ vào tô mắm nhiều sẽ không ngon.
Mắm chưng là một trong những món mắm miền Tây dễ ăn nhất.
Mắm cá lóc chiên
Ở các tỉnh như Sóc Trăng, Bạc Liêu còn có cách chế biến món mắm miền Tây thú vị hơn là chiên mắm cá lóc. Để con mắm chiên lên không bị nát, không để mắm dính chảo hay bị cháy khét đòi hỏi người chiên phải vô cùng khéo tay.
Mắm cá lóc chiên làm bữa cơm ngày thường thêm ngon miệng.
Món mắm chiên hoàn hảo phải còn nguyên hình dáng, vàng ươm được dọn trong dĩa, xung quanh xếp thêm các loại rau vườn đẹp mắt và hấp dẫn. Đây là món ăn khiến người ăn nhớ mãi hương vị đồng quê đậm đà vì quá đỗi quen thuộc, gắn với tuổi thơ bao người con miền Tây xa xứ.
Mắm đu đủ - món ăn dậy ký ức người miền Tây Mắm thơm lừng, từng cọng đu đủ giòn, trong veo, thấm vị ngọt của đường mía, thêm chút cay của ớt và nồng nhẹ của tỏi. Ngày nhỏ mỗi lần tới vụ lúa, tôi hay theo ngoại ra đồng bưng cơm xách nước cho mấy cô chú thợ gặt. Họ hay khen cơm nhà ngoại nấu ngon, ăn xong quên luôn mệt. Giữa...