Đặc sản “gác bếp” Tây Bắc ai từng thử qua cũng phải lòng
Thịt trâu gác bếp và thịt lợn gác bếp từ lâu đã là đặc sản nổi tiếng của núi rừng Tây Bắc. Ai đã từng một lần được thưởng thức hai món “gác bếp” độc đáo này chắc hẳn vẫn còn mãi luyến lưu hương vị của nó.
Tây Bắc – một địa danh đã đi vào thơ ca không chỉ bởi vẻ đẹp thiên nhiên độc đáo mà còn bởi những con người mộc mạc, chân chất cùng với nền ẩm thực phong phú, hiếm có.
Tuy nhiên, phải nói rằng, những cung đường quanh co uốn lượn, những dòng sông lững lờ dưới triền núi, những cao nguyên đẹp miên man trong mùa hoa là những phong cảnh chúng ta có thể rất dễ bắt gặp khi đến vùng núi phía Bắc. Điều duy nhất tạo nên sắc riêng cửa từng vùng có lẽ đến từ con người và nền ẩm thực đặc trưng mỗi nơi. Với Tây Bắc, khi nhắc đến những món ăn tạo nên nét riêng biệt của vùng đất này có lẽ không thể không nhắc đến hai món “gác bếp” cực kì nổi tiếng là thịt trâu và thịt lợn.
Không phải tự dưng mà người ta xếp hai loại thịt khô này vào danh sách những sản vật hàng đầu của Tây Bắc, bởi hai món “gác bếp” này đã có từ rất lâu đời, để mà nói ai là người đã sáng tạo ra món đặc sản này thì ngay cả các cụ già làng nhất cũng không biết được, chỉ biết rằng đã có từ hàng ngàn năm nay.
Không chỉ vậy, hương vị của hai món đặc sản này còn mang hương thơm của các loại gia vị nổi tiếng chỉ có riêng ở vùng cao như: hạt mắc khén, hạt dổi,… tạo nên một món ăn đậm chất núi rừng với hương vị khó quên.
Trâu gác bếp vốn là đặc sản của người Thái đen, xưa kia họ nghĩ ra cách ướp thịt trâu, bò treo lên gác bếp để có thể ăn được lâu, dùng trong những ngày lễ tết, cỗ bàn hay những dịp quan trọng. Ngày nay, thịt trâu gác bếp trở thành đặc sản vùng cao Tây Bắc, phổ biến hơn trong bữa cơm của dân bản, được những thực khách bốn phương rất ưa thích.
Trâu gác bếp được xem là một món đặc sản đặc sắc của Tây Bắc có lẽ đến từ cách chế biến và bảo quản cầu kỳ của món ăn này. Để làm trâu gác bếp người ta phải chọn từ thịt thăn và bắp trâu tươi. Sau đó, họ róc các thớ thịt ra thành từng miếng, tẩm gia vị đặc biệt dậy mùi như hạt dổi, hạt sẻn… rồi gác bếp cho chín dần bằng khói bếp củi.
Thịt trâu sấy vừa tới, thịt có độ dai vừa phải, thớ thịt hồng nhẹ đan xen, không cứng, ăn còn nguyên vị ngọt của thịt tươi.
Video đang HOT
Khi thưởng thức, vị ngọt của thịt hoà quyện cùng cái vị đậm đà cay cay thơm nồng của gia vị vùng cao khiến ai từng ăn một lần đều nhớ mãi không quên. Đó cũng là một trong những lý do vì sao thịt trâu khô lại được nhiều người yêu thích đến vậy.
Cũng giống như thịt trâu, lợn gác bếp cũng có cách làm tương tự. Chỉ khác ở chỗ nguyên liệu và gia vị tẩm ướp.
Để làm ra thịt lợn gác bếp ngon người dân Tây Bắc chọn thịt từ những chú lợn được chăn thả tự nhiên ở núi cao. Khác với thịt trâu, lợn gác bếp có chút cay cay của gừng, của ớt, thơm thơm của tỏi và mắc khén và đặc trưng nhất là những loại lá rừng được đồng bào cho vào để tẩm ướp trước khi sấy thịt. Do vậy khi thưởng thức món thịt lợn gác bếp cho ta cảm giác rất lạ, vị ngọt ngậy, dai của thịt mà không hề bị ngấy.
Món thịt lợn gác bếp giờ đây không chỉ là món ăn truyền thống của người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng Tây Bắc Việt nam mà còn là món đặc sản được nhiều người yêu thích với bất cứ ai yêu thích nghẹ thuật ẩm thực Tây Bắc. Ngày nay ở rất nhiều nơi học cách làm thịt lợn gác bếp ở vùng đất này, nhưng không đâu cũng có thể làm được món thịt lợn gác bếp ngon như nơi đây.
Có những người cầu kì, muốn thưởng thức trọn vị ngon của hai loại đặc sản “gác bếp” này đã lặn lội lên tận Tây Bắc để ăn và mua về. Thế nhưng, nếu tìm tòi một chút, bạn có thể mua được thịt trâu và thịt lợn gác bếp chính hiệu Tây Bắc ngay tại Hà Nội mà không phải đi đâu xa. Bởi, để đáp ứng nhu cầu của người dân Hà thành, tiểu thương vùng cao đã không ngại mang đặc sản quê mình đi xa hơn để nhiều người biết đến hơn. Tuy nhiên, khi tìm đến những địa chỉ mua hàng bạn cũng nên tìm hiểu chọn nơi uy tín, có thương hiệu để tránh mua phải hàng nhái, hàng kém chất lượng.
Đều là những đặc sản không có chất bảo quản bởi vậy khi mua thịt trâu gác bếp và thịt lợn gác bếp về bạn nên bảo quản trong ngăn đá của tủ lạnh như vậy sản phẩm sẽ sử dụng được lâu hơn. Nếu được bảo quản tốt, trong vòng 6 đến 8 tháng hai loại thịt khô này vẫn không mất đi hương vị của nó.
Cốm xanh Tú Lệ - Món quà độc đáo của núi rừng Tây Bắc
Hạt cốm Tú Lệ mang một màu xanh đậm đặc biệt mà không loại cốm nào có thể lẫn được.
Cốm Tú Lệ được chắt lọc từ tinh túy của đất, trời cùng với sự mộc mạc thô sơ của đồng bào dân tộc Thái vùng Tây Bắc.
Sau khi giã, cốm Tú Lệ được đem sàng, sẩy để làm sạch trấu, kết thúc quy trình làm cốm. (Ảnh: Thế Duyệt/TTXVN)
Tháng 10 đến, ở Tây Bắc, dưới chân đèo Khau Phạ, lúa nếp non trên những thửa ruộng bậc thang Nà Loóng, Pom Ban, Bản Côm, Púng Xổm... của xã Tú Lệ, huyện Văn Chấn hay ở các bản Lìm Mông, Lìm Thái của xã Cao Phạ, huyện Mù Cang Chải đã cắt gần xong, người dân cũng hối hả giã cốm.
Thung lũng xã Tú Lệ được vây quanh bởi ba ngọn núi Khau Phạ, Khau Thán và Khau Song. Từ lâu, Tú Lệ nổi tiếng với đặc sản gạo nếp Tan - "Khẩu tan chạu" - thứ lương thực quý mà chỉ đất Tú Lệ mới trồng được.
Theo các nhà khoa học, nếp Tú Lệ thơm ngon là do khí hậu ở đây mát mẻ quanh năm, biên độ giữa ngày và đêm chênh lệch nhau rất lớn nên năng lượng cây lúa tích trữ được rất cao.
Ngoài ra phải kể đến đất Tú Lệ có nhiều mùn và khoáng chất, dòng suối chảy từ đỉnh đèo Khau Phạ xuống nước trong vắt, đó là những yếu tố tự nhiên tạo nên hương vị đặc biệt của hạt gạo nếp Tú Lệ.
Nếp Tú Lệ có hạt to tròn, trắng trong, khi được đồ thành xôi có vị dẻo, thơm đặc biệt; còn khi chế biến thành cốm lại có hương vị ngọt ngào, thanh mát.
Hạt cốm Tú Lệ mang một màu xanh đậm đặc biệt mà không loại cốm nào có thể lẫn được. Cốm Tú Lệ được chắt lọc từ những tinh túy của đất, trời cùng với sự mộc mạc thô sơ của đồng bào dân tộc Thái vùng Tây Bắc.
Cốm Tú Lệ không chỉ là tinh hoa của đất trời, mà còn có cả tình yêu, hồn đất, hồn người gửi gắm vào trong đó. Vì vậy cốm ở nơi đây là đặc sản có một không hai của núi rừng Tây Bắc.
Để làm ra những hạt cốm còn giữ nguyên được hương vị đậm đà, thơm dịu đầy sức quyến rũ mang nét đặc trưng của vùng cao Yên Bái, bà con người dân tộc Thái nơi đây đã phải rất công phu.
Khi lúa khum ngọn, hãy còn nguyên hương sữa thì cũng là lúc gặt đem về làm cốm. Bà con phải hái những bông lúa từ khi còn sớm, hạt lúa còn đẫm sương đêm, mang về tuốt, sau đó rang ngay, nếu để cách ngày mới rang thì hạt cốm không còn xanh ngon nữa. Bởi thế, khi trời mới tờ mờ sáng, người dân Tú Lệ đã ra đồng hái lúa, mang về tuốt và rang cốm.
Bếp lò để rang thóc thường phải đắp xỉ than, nhưng không đốt than mà dùng củi. Chảo rang thường bằng gang đúc, có như vậy từng hạt cốm khi rang xong sẽ không bị cháy mà mềm dẻo, thơm ngon.
Để làm ra những mẻ cốm thơm ngon, ngay từ sáng sớm tinh mơ, những cô gái Thái ở Tú Lệ ra đồng hái những bông lúa nếp non gần hết nước trắng sữa mang về nhà. (Ảnh: Tiến Khánh/TTXVN)
Thóc được rang trong lửa nhỏ, đảo liên tục sao cho nóng đều. Lửa phải được duy trì đều trong khoảng 30 phút đến khi nứt hạt và dậy mùi thơm. Theo quan niệm của người Thái, đây là công đoạn quan trọng quyết định độ ngon của cốm, bởi nếu quá lửa sẽ bị cứng, nếu non lửa sẽ bị mất đi độ dẻo. Rang xong, đợi thóc nguội rồi cho từng mẻ vào cối giã.
Trong công đoạn giã cốm, chân người giã phải đều, liên tục và nhịp nhàng để chày giã không mạnh quá hoặc nhẹ quá. Đồng thời, một người khác dùng mảnh tre đảo thóc trong cối, khi thấy có trấu thì xúc ra sảy bỏ rồi lại giã tiếp.
Tùy theo độ non của lúa khi gặt mà người giã cốm sẽ ước lượng, trung bình khoảng 10 lần giã mới hoàn tất mẻ cốm. Cốm giã xong được gói trong lá dong xanh, vừa tăng thêm màu xanh của cốm, vừa lưu giữ mùi thơm của sữa lúa.
Gia đình chị Hoàng Thị Sáng, bản Nà Lóng, xã Tú Lệ làm cốm hàng chục năm nay chia sẻ, các công đoạn làm cốm rất phức tạp và cầu kỳ. Vào mùa làm cốm, gia đình phải dậy từ 5 giờ sáng để đi cắt từng bông lúa nếp. Cắt về lại phải chọn từng bông, bông nào lúa chín vừa mới làm được cốm ngon còn bông già thì không làm được.
Cốm Tú Lệ đã trở thành một mặt hàng thương phẩm được nhiều thực khách xa gần ưa chuộng, trở thành món quà quê để mọi người gửi biếu bạn bè, người thân.
Hiện người dân của các thôn bản trong xã Tú Lệ đều sản xuất cốm. Trung bình một ngày, mỗi gia đình ở bản Nà Lóng làm được khoảng 20kg cốm với giá bán 100.000 đồng/kg. Đây là một nguồn thu nhập chính, giúp cuộc sống của người dân nơi đây ngày càng cải thiện.
Cốm cũng đã trở thành biểu tượng văn hóa của Tú Lệ, để mỗi độ thu sang hương vị của nếp rừng Tan Lả lại lan tỏa khắp mọi miền, làm nên thương hiệu của mảnh đất vùng cao Yên Bái./.
Bản đồ ẩm thực: Độc đáo thịt trâu gác bếp ở Sơn La Với nền văn hóa ẩm thực đặc sắc, người dân tộc Thái ở Sơn La đã tạo nên thịt trâu gác bếp, món ăn trứ danh, phảng phất hơi thở của núi rừng Tây Bắc. Trâu gác bếp là phương thức chế biến bằng cách treo thịt trâu lên giàn treo rồi dùng chính sức nóng từ bếp củi phía dưới giàn tỏa...