Hạt cải sen, thuốc trong vườn nhà
Cải sen còn gọi là cải bẹ, là cây vừa có giá trị về mặt thực phẩm, vừa có giá trị làm thuốc trong YHCT.
Hạt cải sen, tên thuốc là bạch giới tử là vị thuốc được dùng khá phổ biến trong Đông y. Bạch giới tử chứa nhiều acid béo sinapic, arachidic, crucic; tinh dầu… Có nhiều cách chế biến bạch giới tử làm thuốc như: Bạch giới tử vi sao là hạt cải sao nhỏ lửa tới khô, hơi có mùi thơm, để nguội; Bạch giới tử sao vàng là hạt cải sao nhỏ lửa đến màu vàng sẫm có mùi thơm, vị cay, đặc trưng của mùi cải, để nguội; Bạch giới tử sao đen là đun nóng chảo, cho bạch giới tử vào, đảo đều cho đến khi ngoài vỏ có màu hơi đen, để nguội. Bạch giới tử sao đen có màu hơi đen, có vị thơm đặc trưng của họ cải, nhấm có vị hơi cay.
Theo YHCT, bạch giới tử có vị cay, tính ấm, quy kinh phế. Có công năng ôn phế, trừ đàm hàn, giảm đau, tiêu thũng, tán kết, thông kinh lạc, hành khí, lợi khí. Chủ trị ho hàn, nhiều đờm, suyễn tức, khó thở, sườn ngực đau trướng, xương khớp tê đau. Ngày dùng 3 – 9 g, dưới dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán. Kiêng kỵ: phế hư, ho khan.
Bạch giới tử được làm thuốc trong các chứng bệnh:
Mụn nhọt sưng đau, đau họng: hạt cải sen 9g sao qua, nghiền mịn, thêm chút nước, quấy đều tạo thành dạng hồ nhão, lấy bông sạch chấm thuốc, bôi vào nơi sưng đau, nếu đau họng thì bôi quanh vùng ngoài yết hầu. Cách làm này cũng có thể dùng đối với nhọt bọc, hoặc viêm hạch lâm ba. Làm như vậy nhiều lần trong ngày.
Trị đau đầu: hạt cải sen 8g, vi sao, tán mịn, mặt khác lấy 10g gừng tươi, rửa sạch, thái phiến, giã nát, vắt lấy nước cốt. Đem bột hạt cải trộn đều với nước gừng, rồi bôi vào vùng gáy (tốt nhất là bôi vào 2 huyệt phong trì: chỗ lõm hai bên gáy, dưới xương sọ và huyệt phong phủ, lõm dưới xương chẩm), vùng hai bên thái dương và vùng đỉnh đầu (tốt nhất là bôi vào huyệt bách hội, chỗ hơi lõm ở đỉnh đầu, nơi giao nhau của đường kéo từ hai chóp trên của tai lên với đường sống mũi và chẩm). Cũng làm theo cách tương tự để bôi vào các chỗ đau khác, như đau lưng, đau liên sườn, đau gối…Có thể thay gừng bằng rượu, giấm cũng được.
Trị ho đờm: để trị ho đờm có thể dùng riêng hạt cải sen, hoặc tốt nhất là dùng phối hợp với hạt cải củ, còn gọi là lai phục tử, quả tía tô, còn gọi là tô tử, đồng lượng 6 – 9g, dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột. Đây là phương thuốc cổ truyền, dùng tốt cho các chứng ho đờm kéo dài, chứng ho nhiều đờm mà loãng, hen suyễn, đặc biệt ho, hen ở người cao tuổi. Phương thuốc đã được chứng minh trên thực nghiệm chống ho, trừ đờm tốt. Ngoài ra còn có tác dụng ức chế với nhiều chủng vi khuẩn, như tụ cầu vàng, trực khuẩn lỵ, đại tràng, thương hàn; Đặc biệt với hai chủng vi khuẩn thường gặp trong các bệnh đường hô hấp: Pseudomonas aeruginosa và Haemophylus influensae.
Video đang HOT
Theo SK&ĐS
Củ ấu - bài thuốc hay
Củ ấu thường có hai giống: ấu gai cho trái có hai sừng nhọn như gai, năng suất thấp. Ấu trụi cho trái có hai sừng tù, năng suất cao. Nếu trái ấu chưa quá già, màu nâu, chưa rụng xuống bùn, luộc ăn ngon, gọi là ấu nâng gương. Nếu trái đã già, chuyển qua màu đen sẫm, vỏ cứng như sừng, có nhiều bột, gọi là ấu sừng trâu, cần thu hoạch liền. Mùa hoa tháng Năm-Sáu, mùa trái tháng Bảy-Chín.
Trái ấu mà ta thường gọi là củ ấu (Fructus Trapae) phải thu hoạch lúc già, đem luộc chín, lấy nhân ra, phơi hoặc sấy khô để dùng dần. Vỏ trái phơi khô để làm thuốc. Toàn cây tươi hoặc phơi khô cũng được dùng làm thuốc.
Trong 100g thịt củ ấu có chứa: protein 3,6g; lipid 0,5g; glucid 24g; Ca 9mg; P 49mg; Fe 0,7mg; caroten 0,01mg; vitamin B1 0,23mg; B2 0,05mg; PP 1,9mg; C 5mg; cung cấp 115 calo.
Ảnh: Internet
Theo Đông y, thịt trái ấu có vị ngọt, tính mát, tác dụng bổ mát, giải thử nhiệt, giải độc, giải rượu, trừ phiền. Ăn vào giúp ích khí, kiện tỳ, bổ ngũ tạng.
Sách Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân (1518-1593) cho rằng, củ ấu có công năng cầm tiêu chảy, chữa kiết lỵ, đại tiện ra máu, loét dạ dày... Ngày dùng 30-60g, sắc uống.
Vỏ trái ấu dùng chữa loét dạ dày và loét cổ tử cung. Toàn thân cây dùng chữa trẻ em sài đầu, giải độc rượu và làm cho sáng mắt. Liều dùng 10-16g, dạng thuốc sắc.
Sau đây là một số bài thuốc có dùng ấu:
- Giải trúng nắng, giải say rượu, dã độc thuốc: dùng thịt ấu tươi 150-250g, nhai nát nuốt dần hoặc giã nát, chế thêm nước nguội để uống.
- Chữa tỳ vị hư nhược, ăn uống không tiêu, đi cầu lỏng, hay đau bụng lạnh: thịt ấu 50g, bạch truật 16g, sơn tra 10g, hoài sơn 16g, màng mề gà (kê nội kim) 6g, cam thảo bắc 3g. Sắc với 750ml nước, còn lại 300ml chia hai-ba lần uống lúc đói bụng.
- Chữa viêm loét dạ dày: thịt ấu 30g, hoài sơn 16g, táo đỏ 16g, bạch cập (Rhizoma Bletiliae) 10g, gạo nếp 100g. Cho tất cả vào nồi, thêm lượng nước vừa đủ để nấu cháo nhừ. Khi ăn cho 20g mật ong trộn đều. Chia hai-ba lần ăn trong ngày. Món này còn là món ăn bổ trợ tốt cho những người bị ung thư dạ dày.
- Chữa đại tiện ra máu: vỏ ấu 60g, cỏ mực 8g, trắc bá diệp (sao đen) 8g, hoa hòe (sao) 8g, gương sen (sao) 8g, sắc với 750ml nước, còn 300ml chia hai lần uống trước bữa ăn.
- Chữa trĩ ra máu: vỏ ấu sấy khô, đốt tồn tính, tán bột mịn, trộn đều với dầu mè để bôi hoặc đắp, ngày ba-bốn lần.
- Hư nhiệt, phiền khát: thịt củ ấu tươi 50g, mía lau 50g, câu kỷ tử 10g, đậu đen 16g, sắc uống.
- Loét dạ dày, loét cổ tử cung: lấy vỏ củ ấu sao vàng cho có mùi thơm rồi sắc với nước uống.
Người ta còn lấy thịt ấu sấy khô, tán bột, hòa với đường hoặc mật để làm bánh ăn rất ngon và bổ dưỡng, phòng chống thử nhiệt mùa nắng nóng.
Củ ấu đốt thành than tồn tính, tán thành bột, trộn đều với dầu vừng, dùng bôi ngoài trĩ, mụn nước, nhiễm trùng sưng ngoài da. Dùng đun nước rửa hậu môn để chữa sa trực tràng (lòi dom).
Tuy củ ấu là vị thuốc tốt và thực phẩm ngon, nhưng ăn nhiều sẽ gây trệ khí, do đó những người có u cục ở ngực, bụng, không được dùng.
Theo PNO
Rau má chữa bệnh Nói tới rau má, hầu hết nhân dân ta, nhất là vùng nông thôn, ai cũng nhận biết được dễ dàng. Đã từ lâu, nhân dân ta biết dùng rau má làm món rau ăn, thậm chí có thể ăn rau má đến no bụng, hỗ trợ lương thực thiếu vào những ngày giáp hạt thuở xa xưa. Bởi thế ở xứ Thanh...