Gặp nữ thủ khoa tốt nghiệp yêu màu áo cam ngành điện
Tốt nghiệp đầu ra với số điểm 3,42/4, Lê Thùy Dung đã xuất trở thành thủ khoa Quản lý Công nghiệp và Năng lượng của Trường Đại học Điện lực năm 2021.
Thủ khoa Quản lý Công nghiệp và Năng lượng chụp ảnh lưu niệm cùng TS. Dương Trung Kiên – Phó Hiệu trưởng nhà trường (ảnh tư liệu).
Hiện tại, Dung đang công tác tại Công ty Điện lực Thanh Hóa với chức danh kỹ sư Quản lý năng lượng.
Chọn màu áo cam
Lê Thùy Dung sinh năm 1998, cô sinh ra và lớn lên tại thị trấn Thọ Xuân, Thanh Hóa trong một gia đình có truyền thống công tác tại ngành điện. Từ nhỏ, Dung đã được tiếp xúc với các cô chú công nhân viên trong ngành điện, thấu hiểu nỗi vất vả, hi sinh “thầm lặng” vì mục tiêu mang ánh sáng đến với cộng đồng của họ. Bản thân Dung cũng thích màu áo cam của ngành và định hướng ngay từ đầu sẽ chọn trường Đại học Điện lực.
Để có thể đạt được ước mơ của mình, ngay từ khi vào lớp 10, Thùy Dung đã nỗ lực học tập và rèn luyện. Tuy nhiên, thời gian hai năm lớp 10, lớp 11 học lực của Dung chỉ đạt khá. Không nản chí, Thùy Dung càng chăm chỉ nỗ lực học tập hơn, sang đến năm cuối cấp, kết quả học lực cuối năm của em đã đạt loạt giỏi.
“Với em, được thỏa mãn ước mơ trở thành một kỹ sư điện, được góp sức mình làm những việc có ích cho xã hội thì bất cứ nơi đâu, đó đều là niềm hạnh phúc. Theo tìm hiểu của em, ngành năng lượng thời điểm đó là một lĩnh vực khá mới và được đ.ánh giá là ngành hot nên em đã đăng ký ngay nguyện vọng đầu tiên là chuyên ngành Quản lý Năng lượng của trường Đại học Điện lực”, Thùy Dung chia sẻ cơ duyên đến với trường.
Thùy Dung cho biết biết, nhận thức được đặc thù của ngành điện vốn vất vả nên môi trường học tập sẽ rất nghiêm túc, đòi hỏi phải có cả kiến thức và thể lực tốt nên trong thời gian học tập tại trường THPT Lê Lợi, ngoài việc học tập các môn văn hóa, em còn tham gia rèn luyện, đi thi và đạt giải thể dục thể thao các môn bóng rổ, chạy 800m nữ cấp trường, cấp huyện, cấp tỉnh.
N.ữ s.inh đa tài
Video đang HOT
Năm học 2016-2017, Thùy Dung bước vào ngôi trường mà mình hằng mơ ước từ thủa nhỏ với tư cách là cô tân sinh viên Khoa Quản lý Công nghiệp và Năng lượng của Trường Đại học Điện lực.
“Điểm đầu vào trường Đại học của em không quá cao so với mặt bằng chung tuyển sinh vào Khoa Quản lý Công nghiệp và Năng lượng năm đó (chỉ cao hơn điểm chuẩn của khoa vài điểm), nên trước khi nhập học em cũng có chút lo lắng, không biết có đủ sức để theo học tại trường không. Nhưng gia đình, thầy cô và bạn bè động viên nhiều nên em cũng vững tâm hơn trước khi ra Hà Nội nhập học”, Thùy Dung chia sẻ.
Dù vậy ở năm đầu tiên đại học, Dung gặp không ít khó khăn vì sự thay đổi môi trường cũng như cách học. Dung nhớ lại, trong kỳ đầu Đại học, em gặp khó khăn với việc tiếp cận với phương pháp dạy và môi trường học tập mới nên điểm tổng kết ở kỳ đầu của em còn rất khiêm tốn. Một phần nghe được một số anh chị khóa trên chia sẻ về việc khó qua môn, trong tư tưởng lúc đó Dung nhiều lúc nghĩ học chỉ để cố gắng qua môn. Nên thành tích học tập của Dung chưa được cao
Dung cho biết: “Sang kỳ học thứ 2, thay vì chán nản với kết quả học tập của kỳ đầu thì em đến lớp cố gắng chăm chú nghe thầy cô giảng bài và tiếp thu lượng kiến thức thầy cô truyền đạt, về nhà dành thời gian làm thêm bài tập và kết quả học tập tại kỳ học này của em nằm ngoài dự kiến (3.45/4).
Thùy Dung trong ngày lễ tốt nghiệp.
Từ đó, em thấy bản thân mình có thể cố gắng hơn nữa, cho dù vẫn có những lúc gặp khó khăn vì những môn học khá là trừu tượng để em có thể hiểu nó. Và các kỳ học tiếp theo em cũng tiếp tục phấn đấu như vậy dưới sự giúp đỡ và chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm của các thầy cô giáo”.
Khoa Quản lý Công nghiệp và Năng lượng là đơn vị có truyền thống trong các hoạt động phong trào đoàn viên thanh niên, và năm nào cũng tổ chức những hoạt động nhằm kết nối sinh viên với nhau và giữa sinh viên với các thầy cô giáo của khoa, điều này tạo cho Dung và những bạn sinh viên khác thấy được sự gần gũi, nhiệt huyết, sự sẵn sàng chia sẻ những khó khăn đối với sinh viên của các thầy cô, khiến sinh viên không cảm thấy xa lạ khi xa gia đình để bước vào một môi trường hoàn toàn mới.
Bất cứ một hoạt động hay hội thảo được tổ chức, nếu có cơ hội Dung đều có mặt và được gặp gỡ, giao lưu, trao đổi với nhiều cô chú, anh chị đã có nhiều năm làm việc trong ngành và học tập được từ họ những kinh nghiệm quý giá.
Với nỗ lực của mình, Dung trở thành thủ khoa đầu ra của Khoa Quản lý Công nghiệp và Năng lượng của Trường Đại học Điện lực với điểm tổng kết học tập đạt 3,42/4 (đạt loại giỏi) và điểm rèn luyện 90/100 (loại xuất sắc). Dung được nhà trường giới thiệu, đề nghị tuyên dương, khen thưởng lên Thành đoàn và UBND Thành phố với tư cách là thủ khoa xuất sắc tốt nghiệp các trường đại học, học viên trên địa bàn TP Hà Nội năm 2021. Đặc biệt, nhờ có kết quả học tập tốt, có trách nhiệm với tập thể, tham gia nhiều hoạt động đoàn thể Dung được kết nạp vào Đảng ngay trong trường đại học. Đây không chỉ là niềm vinh dự tự hào mà là trách nhiệm rất lớn đối với cá nhân Dung.
Thùy Dung cho rằng, điểm thi đại học cao hay thấp, là thủ khoa hay vừa đủ trúng tuyển hoàn toàn không quyết định nhiều. Điều quan trọng là khi bước vào môi trường đại học, mọi thứ có thể thay đổi nếu bản thân mỗi sinh viên có sự nỗ lực. Hãy luôn cố gắng học tập và rèn luyện, đặt mục tiêu từ nhỏ đến lớn rồi hành động. Đồng thời kết hợp giữa việc học và các hoạt động ngoại khóa một cách hài hòa, điều này sẽ giúp ích rất nhiều cho các bạn sinh viên trong công việc sau này.
Thùy Dung (thứ 2 từ trái sang) tích cực tham gia vào các cuộc thi do khoa tổ chức để được gặp gỡ, giao lưu, trao đổi…(ảnh tư liệu).
Sau khi tốt nghiệp loại giỏi, Dung bỏ qua các cơ hội việc làm ở Hà Nội để về quê công tác tại Công ty Điện lực Thanh Hóa với chức danh kỹ sư Quản lý năng lượng, đúng với ngành học mà mình vừa tốt nghiệp.
Bước chân chính thức vào ngành điện khi mới 23 t.uổi. Dung tâm sự, mình chỉ có chút kiến thức trên giảng đường và niềm đam mê với nghề điện. Đặc thù của công việc này cần sự chính xác đến chi tiết và độ sai số là rất thấp, đòi hỏi người thực hiện có trình độ chuyên môn vững, tính cẩn trọng và chịu khó trong công việc. Muốn phát triển bản thân thì bất kể công việc dù nhỏ hay lớn đều phải đam mê, nhiệt huyết. Đồng thời, phải chịu khó học hỏi từ những người đi trước, chia sẻ những khó khăn, vướng mắc với đồng nghiệp để tìm ra phương pháp tối ưu, tích cực nhất.
“Mình là người trẻ, kinh nghiệm chưa có nhiều, nhưng may mắn là đang được làm việc trong môi trường chuyên nghiệp, phù hợp với ngành học và đam mê. Điều quan trọng nhất, Dung muốn được cống hiến nhiều hơn nữa cho công ty cũng như quê hương mình”, Lê Thùy Dung tâm sự.
Sinh viên đại học: Cần khắc phục tâm lý “học đại”, xác định mục tiêu không rõ ràng
Bên cạnh những sinh viên nỗ lực học, tốt nghiệp thứ hạng cao dễ dàng tìm được việc làm sau khi ra trường thì vẫn còn không ít sinh viên giữ tâm lý "học đại", "xả hơi", lâm vào tình trạng sa đà, xác định mục tiêu không rõ ràng khi ngồi trên ghế giảng đường.
Theo nghiên cứu, tỷ lệ sinh viên có việc làm tương ứng với năng lực mà sinh viên đã học.
Tỷ lệ có việc làm tăng theo thứ hạng tốt nghiệp
Theo báo cáo đ.ánh giá tình hình việc làm sinh viên tốt nghiệp năm 2020 của Trung tâm Hỗ trợ đào tạo và Cung ứng nguồn nhân lực - Bộ GD&ĐT, sinh viên tốt nghiệp thuộc nhóm ngành y dược có tỷ lệ việc làm cao nhất, tiếp theo là nhóm Khoa học xã hội, Kinh tế, Luật...
Nghiên cứu đã khảo sát tình hình việc làm trong khoảng 12 tháng kể từ khi tốt nghiệp của hơn 1.600 sinh viên từ 15 trường đại học (ĐH), học viện trên cả nước. Theo đó, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đã có việc làm chiếm 88,3% trong tổng số người trả lời phỏng vấn. Số đang thất nghiệp là 9,1%. Tỷ lệ nhỏ còn lại cho biết chưa có việc làm nhưng không có nhu cầu tìm việc.
Phân tích tình trạng việc làm của sinh viên theo kết quả xếp loại tốt nghiệp cho thấy, tỷ lệ có việc làm của sinh viên tốt nghiệp tăng dần theo thứ hạng. Sinh viên tốt nghiệp với thứ hạng càng cao thì tỷ lệ có việc làm càng cao. Nếu tỷ lệ có việc làm của sinh viên tốt nghiệp loại trung bình chỉ là 77,8%, sinh viên tốt nghiệp loại xuất sắc tỷ lệ có việc làm là 94,5%. Chỉ có 1,8% sinh viên xuất sắc hiện thất nghiệp. Theo đ.ánh giá của nhóm nghiên cứu, thực trạng này là một minh chứng rất sinh động về nỗ lực học tập, rèn luyện, trau dồi kiến thức của sinh viên khi ngồi trên giảng đường.
Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu chỉ ra rằng, hơn 93% sinh viên sau khi tốt nghiệp đã có việc làm chủ yếu là làm công ăn lương. Như vậy, tỷ lệ sinh viên tự tạo việc làm sau khi tốt nghiệp ĐH còn rất thấp. Bên cạnh đó, tỷ lệ sinh viên thay đổi công việc trong khoảng 12 tháng sau khi tốt nghiệp là hơn 40%, đặc biệt là nhóm sinh viên nữ, dân tộc thiểu số và đối tượng thuộc diện nghèo. Kết quả này cho thấy sinh viên thuộc nhóm yếu thế thường sẵn sàng làm các công việc khác nhau và luôn tìm các cơ hội công việc tốt hơn.
Nhóm nghiên cứu cũng chỉ ra những khó khăn, trở ngại lớn nhất mà sinh viên gặp phải khi tìm kiếm việc làm. Đó là thiếu hoặc không có thực tiễn và kinh nghiệm nghề nghiệp; thiếu kỹ năng ngoại ngữ, vi tính; thị trường lao động bão hòa; thiếu hiểu biết về thị trường lao động; và công việc được nhận không có mức lương đảm bảo.
Về thu nhập, mức thu nhập chủ yếu của sinh viên sau khi ra trường đi làm từ hơn 7 triệu đồng đến 10 triệu đồng/tháng (35,5%), tiếp đến là hai mức từ hơn 10 triệu đồng đến 15 triệu đồng/tháng và từ hơn 5 triệu đồng đến 7 triệu đồng/tháng (21,5%). Tại Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội, tỷ lệ sinh viên học ngành công nghệ thông tin (CNTT) ra trường có việc làm theo đúng ngành đào tạo đạt trên 90%, thậm chí nhiều sinh viên năm thứ 4 đã được các doanh nghiệp săn đón. Tuy nhiên, không phải trường nào đào tạo về ngành CNTT cũng đạt kết quả như vậy. Thực tế, tỷ lệ sinh viên CNTT tốt nghiệp mỗi năm đáp ứng được kỹ năng và chuyên môn của doanh nghiệp không cao.
Nhức nhối tình trạng sinh viên bị buộc thôi học
Những năm gần đây, nhiều trường ĐH công bố danh sách sinh viên bị buộc thôi học lên tới hàng ngàn. Đơn cử năm 2020, trường ĐH Sài Gòn công bố gần 1.000 sinh viên dự kiến bị xét tạm dừng học, cảnh báo rèn luyện, buộc thôi học sau khi xét kết qủa rèn luyện học kỳ 2 năm học 2019-2020. Theo đó có khoảng hơn 400 sinh viên bị đưa vào danh sách dự kiến xét tạm dừng học do kết quả xét rèn luyện học kỳ II năm 2019-2020 xếp loại kém. Có khoảng 500 sinh viên bị đưa vào danh sách dự kiến xét cảnh báo rèn luyện do kết quả xét rèn luyện học kỳ II năm học 2019-2020 xếp loại yếu và kém. Có 4 sinh viên bị đưa vào danh sách dự kiến buộc thôi học vì do kết quả xét rèn luyện học kỳ II năm học 2019-2020 xếp loại kém.
Tương tự, ĐH Công nghiệp TP. HCM đã đưa thông báo cảnh báo 2.252 sinh viên tự ý bỏ học, học kỳ I năm học 2019-2020. Trong 2.252 sinh viên bị cảnh báo vì tự ý bỏ học kỳ I có đủ các bậc đại học chính quy, cao đẳng chính quy hay hệ đại học liên thông vừa học vừa làm. Những năm trước ĐH Tây Nguyên, ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM cũng công bố danh sách hàng ngàn thí sinh tương tự.
Ngay tại ĐH Bách Khoa Hà Nội, với điểm đầu vào luôn ở mức khủng với nhiều ngành 27-28 điểm, hàng năm, 700-800 sinh viên phải thôi học do không đáp ứng được yêu cầu. Tại mùa tư vấn tuyển sinh năm nay, PGS.TS Nguyễn Phong Điền - Phó Hiệu trưởng ĐH Bách khoa Hà Nội, khẳng định: "Để trúng tuyển và theo học tại trường đều khó, yêu cầu sinh viên phải cố gắng hết sức. Dù đầu vào sinh viên giỏi, các em vẫn phải đảm bảo lực học, không học kiểu xả hơi. Tất nhiên, việc học ở trường hứa hẹn cho các em tương lai nghề nghiệp, công việc rất tốt". Theo đó, 70-80% trong số sinh viên bị buộc thôi học do sa đà, xác định mục tiêu không rõ ràng. Số còn lại xuất phát từ những nguyên nhân như mất động lực, ốm đau.
Cũng theo PGS.TS Nguyễn Phong Điền, số lượng sinh viên bị buộc thôi học trên không chỉ có tại ĐH Bách khoa Hà Nội, mà các trường kỹ thuật khác như ĐH Thủy lợi, ĐH Giao thông Vận tải cũng có số lượng sinh viên phải bỏ dở việc học không ít hơn con số 700-800 em/năm. Ở chiều ngược lại, trong số 5.000 sinh viên tốt nghiệp (trên khoảng 6.000 em nhập học đầu khóa) của ĐH Bách khoa Hà Nội, khoảng 1.000 em ra trường trước thời hạn. Con số này cho thấy sự chênh lệch, phân hóa rất lớn giữa các sinh viên về ý thức, kỹ năng, thái độ và trình độ, kiến thức. Ngoài ra, trong số những em có thể tốt nghiệp, số em đạt loại khá giỏi chiếm khoảng 70%.
Cùng với đó, theo các chuyên gia giáo dục, có một thực tế, không ít thí sinh chọn ngành học mà không bởi đam mê và yêu thích. Có bạn chọn vì ngành hot, trường hot, có bạn thì miễn vào được ĐH, làm được việc hay không để sau, do đó đã không theo được hoặc chán nản... Có thể nói, xu hướng "nút cổ chai" vào ĐH nhiều năm trước bị coi là đi ngược với thế giới khi đầu vào khó, nhưng đã vào ĐH là cứ thế ra trường đã đang dần được xiết lại. Cùng với việc học tín chỉ, sinh viên có thể ra trường đúng thời hạn, có thể sớm hơn hoặc rất muộn là do nỗ lực của mỗi người. Bởi thế, với các tân sinh viên, ngay từ năm thứ nhất, học ĐH không phải để "xả hơi" hoặc học đối phó.
Gần 40 năm đứng lớp, cô Mùi tâm niệm, không trau dồi chuyên môn sẽ bị thụt lùi "Công tác chuyên môn là xương sống của mỗi nhà trường nên hàng năm, hàng tháng tôi đều trau dồi, học hỏi để nâng cao trình độ của bản thân" cô giáo Mùi chia sẻ. Yêu và mơ ước được trở thành giáo viên từ nhỏ, cô giáo Trần Thị Mùi (sinh năm 1967) không ngừng nỗ lực học tập để theo đuổi...