Dùng IELTS xét tuyển Đại học: Đề cao quá mức hay sự quẩn quanh của ngành Giáo dục?
IELTS chỉ giúp nhà trường chọn được các thí sinh có nền tảng tiếng Anh nhất định, chứ không chắc là người có khả năng tốt ở các môn học khác.
Tuy cả đại diện Bộ Giáo dục, phía nhà trường lẫn 1 số giảng viên đã lên tiếng ủng hộ việc dùng IETLS xét tuyển Đại học. Nhưng việc IELTS được nhiều Đại học sử dụng như 1 tiêu chí tuyển sinh, thậm chí tuyển thẳng có lẽ chỉ là 1 sự quẩn quanh trong chính sách Giáo dục.
IELTS là gì và sự kiếm khuyết của IELTS?
IELTS là viết tắt của cụm từ International English Language Testing System (tạm dịch là hệ thống kiểm tra tiếng Anh quốc tế). Theo Bristish Council (Hội đồng Anh): ” Bài thi được phát triển bởi các chuyên gia hàng đầu thế giới trong lĩnh vực khảo thí và đánh giá năng lực sử dụng tiếng Anh của thí sinh thông qua tất cả các kỹ năng – nghe, nói, đọc và viết. Bài kiểm tra phản ánh cách bạn sẽ sử dụng tiếng Anh để học tập, làm việc và sinh sống trong môi trường sử dụng tiếng Anh“.
Ngay từ lời giới thiệu của Bristish Council có thể thấy IELTS phát huy tác dụng tốt nhất khi bạn muốn học tập, làm việc và sinh sống trong môi trường sử dụng tiếng Anh. Thế nên, việc sử dụng IETLS để làm tiêu chí tuyển sinh cho môi trường học thuật bằng tiếng Việt chưa hẳn đã hợp lý.
Hơn nữa, bản chất của IELTS là để đánh giá năng lực tiếng Anh. Nó không phải là bài thi đánh giá trình độ ở các lĩnh vực chuyên môn khác. Vì thế, việc sử dụng chứng chỉ IELTS để tuyển thẳng có thể mang nhiều sai số. IELTS chỉ giúp nhà trường chọn được các thí sinh có nền tảng tiếng Anh nhất định, chứ không chắc là người có khả năng tốt ở các môn học khác.
Nhiều trường Đại học danh tiếng tại Việt Nam đưa IELTS trở thành một trong những tiêu chí tuyển thẳng. (Ảnh minh họa)
Sở dĩ chỉ nói là nền tảng tiếng Anh nhất định, vì ngưỡng nhiều trường đưa ra để tuyển thẳng thí sinh có chứng chỉ IELTS là khá thấp chỉ 5.0 hay 6.0. Với mốc điểm này khó có thể khẳng định đây sẽ là người giỏi tiếng Anh.
Bởi IELTS là 1 bài thi được thiết kế theo một format cụ thể. Có rất nhiều mẹo, thủ thuật có thể áp dụng để giúp nâng điểm thí sinh lên 1 ngưỡng vừa phải như 5.0 – 6.0. Chỉ cần 1 thời gian ngắn có điều kiện ôn luyện phần lớn đều có thể chinh phục mục tiêu này. IELTS thực sự chỉ có sự phân hóa về năng khiếu và trình độ ở những thang điểm từ 7.0 đến 9.0 .
Ngay cả khi cho rằng chứng chỉ IELTS ở mức 5.0 – 6.0 trở lên là đủ để tuyển chọn những thí sinh có năng lực tiếng Anh tốt trong mặt bằng học sinh THPT Việt Nam, thì xét cho cùng tiếng Anh chỉ là 1 loại công cụ hỗ trợ cho việc học các kiến thức khác. Không thể chỉ vì công cụ mà bỏ qua những yếu tố nền tảng cốt lõi. Mới đây, Bộ Nội vụ còn bỏ quy định về Chứng chỉ Ngoại ngữ trong đề bạt, bổ nhiệm cán bộ.
Thực tế, Chương trình học bổng AAS của Chính phú Úc tại Việt Nam (Australia Awards Scholarship) không hề đặt nặng tiêu chí IELTS khi tuyển ứng viên (dù những người được chọn sẽ học ở Úc). Đã có những ứng viên trúng tuyển dù chỉ có thể trả lời phỏng vấn bằng tiếng Việt thay vì tiếng Anh.
Video đang HOT
Có lẽ vì Hội đồng tuyển chọn quan tâm đến năng lực tư duy, chuyên môn… của ứng viên hơn là ngoại ngữ. Họ cho rằng khoảng thời gian vài tháng được học tiếng Anh trước khi đi du học sẽ cung cấp đủ nền tảng cho ứng viên để theo học ở Úc. Trong khi những yếu tố về chuyên môn, kinh nghiệm làm việc,… thì không phải là thứ dễ có được trong 1 thời gian ngắn. Còn chúng ta thì đang làm ngược lại!
IELTS và sự quẩn quanh của chính sách giáo dục
Là 1 người từng được học bổng của Chính phủ Úc, chứng kiến nhiều bạn xuất phát điểm với nền tiếng Anh rất thấp, nhưng khi có môi trường học và sử dụng đã thăng tiến rất nhanh, đạt đủ điều kiện học tập, làm việc ở Úc, người viết cho rằng điểm số IELTS chỉ phản ánh điều kiện cũng như quá trình được học, sử dụng ngoại ngữ của học sinh THPT chứ không phải cái gì quá ghê gớm (trừ những bạn được điểm IELTS tuyệt đối hoặc gần tuyệt đối).
Thí sinh thi IELTS phải đóng một khoản lệ phí khá cao. (Ảnh minh họa)
Nhìn chung, IELTS mang đến ưu thế rất rõ ràng cho học sinh các thành phố lớn, gia đình có kinh tế tương đối. Trong khi, những học sinh ở vùng sâu, vùng xa, gia đình không có điều kiện lại hoàn toàn thất thế, do năng lực của giáo viên, môi trường sử dụng, học tập,… đều hạn chế hơn nhiều.
Việc đề cao IELTS trong việc tuyển sinh đại học cũng phơi bày tư duy quẩn quanh trong chính sách Giáo dục. Chúng ta đã cố gắng cải cách để giảm tải áp lực cũng như lãng phí trong thi cử. Nhưng việc trao cho IELTS quá nhiều quyền lợi lại đi ngược lại chủ trương ấy.
Trước hết IELTS là 1 kỳ thi vô cùng tốn kém. Để được cấp chứng chỉ IELTS, thí sinh sẽ phải tham dự 1 kỳ thi với lệ phí lên tới 4.750.000 đồng trả cho các tổ chức nước ngoài (theo công bố của Hội đồng Anh) – một con số không hề nhỏ. Nhất là khi 1 thí sinh có thể phải thi tới vài lần để đạt được mục tiêu. Mức phí này là gia tài với nhiều gia đình ở nông thôn.
Ngoài ra, dù hiện nay kỳ thi này đã được mở rộng đáng kể nhưng hiện mới chỉ có mặt ở Hà Nội, TP. HCM và hơn 20 tỉnh, thành phố. Do đó, nếu muốn tham dự kì thi nhiều thí sinh sẽ buộc phải đi sang tỉnh/thành phố khác hoặc di chuyển về tỉnh lỵ của địa phương mình để dự thi. Nó gợi nhớ cảnh hàng năm thí sinh và gia đình phải vất vả khăn gói về các thành phố lớn để thi Đại học trong quá khứ.
IELTS mang đến ưu thế rất rõ ràng cho học sinh các thành phố lớn, gia đình có kinh tế tương đối. (Ảnh minh họa)
Tất nhiên, ai đó có thể lý giải rằng vẫn còn nhiều con đường khác để thí sinh vào Đại học phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế thay vì chạy theo chúng chỉ IELTS. Nhưng việc tạo cho chứng chỉ IELTS quá nhiều đặc quyền hoàn toàn có thể tạo ra 1 cuộc chạy đua trong tương lai gần (hiện tại cũng đã manh nha).
Ngay cả khi nếu cuộc đua lãng phí ấy may mắn không trở thành sự thật, thì tuyển sinh bằng chứng chỉ IELTS đơn giản là vẫn cướp đi các cơ hội, suất vào Đại học của những thí sinh gia đình ít có điều kiện hơn.
Một chính sách được đưa ra để tiếp tục mang đến lợi thế lớn cho nhóm người vốn đã có ưu thế trong xã hội dĩ nhiên là một chính sách cần phải được xét lại. Nên chăng IELTS chỉ nên là tiêu chí phụ được xét đến khi có 2 thí sinh bằng điểm tuyển sinh, thay vì quá coi trọng chứng chỉ này!
Lo bất bình đẳng vì xét tuyển đại học bằng IELTS, Bộ GD-ĐT lên tiếng
Sau khi một số trường đại học công bố phương án tuyển sinh năm 2022, nhiều thí sinh bày tỏ lo lắng liệu cơ hội vào đại học có sụt giảm khi những phương án xét tuyển sử dụng chứng chỉ này ngày càng gia tăng.
Trao đổi với VietNamNet, bà Nguyễn Thu Thủy, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học, Bộ GD-ĐT cho hay các thí sinh sẽ không hề bị mất cơ hội vào đại học đúng với năng lực của mình.
Ảnh minh họa: Thanh Hùng
Theo Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học, thống kê của Bộ GD-ĐT cho thấy, năm 2021, số trường đại học sử dụng kết quả thi tốt nghiệp THPT để xét tuyển là hơn 92%; số trường sử dụng kết quả học tập bậc THPT (học bạ) để xét tuyển là hơn 77%.
Số liệu này cho thấy hầu như các trường sử dụng 2 phương thức cơ bản nêu trên. Nhưng, điều này chưa quan trọng bằng số chỉ tiêu và số liệu nhập học cụ thể của các trường trong toàn hệ thống.
"Qua thống kê tổng chỉ tiêu mà các trường xác định, cũng như con số nhập học thực tế trong năm 2021, 90% thí sinh nhập học theo 1 trong 2 phương thức: sử dụng kết quả thi tốt nghiệp THPT hoặc kết quả học tập bậc THPT (học bạ). Các thí sinh trúng tuyển bằng phương thức khác tổng số chưa đến 10%. Như vậy, 2 năm vừa qua, xu thế đó gần như không có thay đổi nhiều. Có thể nói, tỉ trọng xét tuyển bằng các phương thức khác là không cao so với tổng thể", bà Thủy phân tích.
Do đó, bà Thủy nhận định, trong năm 2022, với tình hình dịch bệnh Covid-19 có thể chưa được khống chế hoàn toàn (chưa thuận lợi để tổ chức thi riêng và thi Đánh giá năng lực một cách phổ biến), thì tỉ lệ nhập học đối với các phương thức vẫn có thể tương tự và ổn định như giai đoạn 2020-2021.
"Các năm tiếp theo, khi các trung tâm khảo thí độc lập đi vào vận hành ổn định, tỉ trọng các trường tốp trên sử dụng kết quả này sẽ gia tăng mạnh mẽ (để dần thay thế cho kết quả thi tốt nghiệp THPT). Các kỳ thi riêng do các nhóm trường tổ chức cũng sẽ chiếm tỉ trọng lớn hơn, được chấp nhận rộng rãi hơn, xu hướng sẽ không cao bằng kết quả thi của các trung tâm khảo thí độc lập vì việc tổ chức thi là tốn kém, vất vả; nếu sử dụng dịch vụ đáng tin cậy thì các trường sẽ chuyển sang sử dụng dịch vụ".
Xét tuyển bằng IELTS, TOEFL không phải là tiêu chí duy nhất
Theo bà Thủy, đa phần các trường sử dụng nhiều phương thức để xét tuyển. Một số cơ sở giáo dục đại học thuộc top đầu - các trường có những chương trình chất lượng cao, chương trình tiên tiến học hoàn toàn bằng Tiếng Anh - thì việc sử dụng thêm các tiêu chí như chứng chỉ ngoại ngữ IELTS, TOEFL trong xét tuyển cũng là điều bình thường, hợp lý, bởi có tính hội nhập quốc tế.
"Tiêu chí về IELTS, TOEFL cũng không phải là tiêu chí duy nhất, mà thông thường các trường còn căn cứ kết hợp cả kết quả học tập hoặc điểm thi tốt nghiệp THPT. Chưa kể, cũng chỉ một phần chỉ tiêu là được xác định tuyển sinh bằng phương thức này".
Với các thí sinh lo ngại liệu có thiệt thòi, bất công khi khó cạnh tranh nếu các trường thêm tiêu chí IELTS, TOEFL,... bà Thủy cho hay: "Việc tuyển sinh luôn tuân thủ nguyên tắc lấy từ cao xuống thấp theo các ngành nghề lĩnh vực và phương thức tuyển sinh mà các trường áp dụng, và quan trọng là cũng tùy thuộc nguyện vọng đăng ký của thí sinh vào các phương thức. Do vậy, nếu thí sinh không trúng tuyển ở phương thức này, vẫn có cơ hội trúng tuyển bằng phương thức khác theo đúng năng lực của thí sinh, trong bối cảnh cạnh tranh với các thí sinh khác có cùng nguyện vọng".
Bà Thủy cũng cho rằng, hiện nay, hầu hết các trường sử dụng phương thức xét tuyển bằng điểm thi tốt nghiệp THPT (chỉ trừ các trường tuyển sinh năng khiếu). Do đó, nếu có năng lực và đủ quyết tâm, ôn tập tốt, tinh thần vững vàng, các em vẫn hoàn toàn có thể trúng tuyển, không hề mất cơ hội.
"Tôi cũng rất chia sẻ với lo lắng sẽ khó trúng tuyển vào các trường thuộc tốp đầu, cạnh tranh rất cao của các thí sinh. Tuy nhiên, nếu xác định mục tiêu phù hợp năng lực và nỗ lực hết mình thì tôi cho rằng các em không mất cơ hội vào đại học mà mình yêu thích.
Có một thực tế là, trong 2 năm qua, do chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19, một số thí sinh đã ôn luyện và thi được các chứng chỉ IELTS, TOEFL nhưng không thực hiện được mục tiêu chính là du học nên các em cũng đã dùng kết quả đó để đăng ký và nhập học vào các trường trong nước. Do vậy, điều này có thể khiến thí sinh sử dụng chứng chỉ này để đăng ký xét tuyển cao hơn một chút so với trước. Tuy nhiên, số chỉ tiêu xét tuyển bằng chứng chỉ ngoại ngữ quốc tế như IELTS, TOEFL,... không quá nhiều và chủ yếu là dành cho các ngành/chương trình đào tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh. Bởi lẽ, khi không có khả năng tiếng Anh tốt thì các thí sinh cũng khó có thể học tốt hay theo kịp chương trình đào tạo".
Bà Thủy cho rằng, với xu hướng quốc tế hóa giáo dục đại học hiện nay, với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trình độ cao cho công dân toàn cầu, thì việc các trường đại học (nhất là các trường hàng đầu) sử dụng các tiêu chí chuẩn hóa quốc tế, được công nhận rộng rãi trên thế giới (như SAT, ACT, IELTS...) để tuyển sinh cũng là điều dễ hiểu và đáng được ghi nhận.
"Có như vậy, cùng với các nỗ lực khác, giáo dục đại học Việt Nam cũng sẽ dần đối sánh được với các nước khác trên thế giới và khu vực, đồng thời tiếp tục thu hút hơn nữa thí sinh nước ngoài tới học. Điều này cũng đúng theo quyền tự chủ kèm theo trách nhiệm giải trình trong công tác tuyển sinh của các cơ sở giáo dục đại học".
Xu hướng tuyển sinh đại học 2022 sẽ không thay đổi nhiều?
PGS.TS Nguyễn Thu Thủy - Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học, Bộ GD-ĐT
Tuy nhiên, từ phía Bộ GD-ĐT, bà Thủy cho hay, Bộ cũng khuyến cáo các trường khi đưa ra những phương thức, chỉ tiêu tuyển sinh thì cần đảm bảo sự ổn định, tránh việc gây xáo trộn, biến động lớn ảnh hưởng đến việc học tập và ôn luyện của thí sinh.
"Khi có những thay đổi lớn thì các trường cần thông báo trước với xã hội, dự trù thời gian để thí sinh có thời gian chuẩn bị cho việc ôn luyện. Các tiêu chí tuyển sinh cần phù hợp với ngành đào tạo và phân loại được thí sinh, việc xét tuyển thực hiện trên cùng thang đo, trên một mặt bằng chung nhằm đảm bảo chất lượng đầu vào, tăng cường cả chất lượng đào tạo, để xây dựng và khẳng định uy tín của nhà trường. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi, giảm áp lực cho thí sinh, đảm bảo công bằng giữa các đối tượng thí sinh, công bằng giữa các cơ sở đào tạo, các vùng miền, khu vực", bà Thủy nhấn mạnh.
Theo Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học, các thí sinh và phụ huynh không nên quá lo lắng, bởi xu hướng mùa tuyển sinh năm 2022 cũng sẽ không thay đổi quá nhiều, phương án tuyển sinh về cơ bản sẽ giữ ổn định tương đối so với năm 2020, 2021. Thay vào đó, cần tập trung vào việc học tập, ôn luyện, tránh hoang mang bởi những thông tin không chính thống.
Thí sinh thi đánh giá năng lực 2022 có cần học tại các "lò luyện thi"? PGS.TS Nguyễn Tiến Thảo cho biết, sau khi ĐH Quốc gia Hà Nội tuyên bố sử dụng kết quả thi Đánh giá năng lực để xét tuyển đại học, một số trung tâm luyện thi đã quảng bá thu hút thí sinh ôn luyện, song thực tế việc ôn luyện tại các trung tâm không mang lại kết quả cho thí sinh. Thông...