Đầu năm tản mạn về chuyển đổi số trong giáo dục
Thời gian gần đây người ta nói nhiều đến chuyển đổi số trong giáo dục. Tuy nhiên, câu hỏi được đặt ra là ai và những gì sẽ phải thay đổi?
Trong giáo dục, chủ thể của chuyển đổi số là những người lãnh đạo, cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh, sinh viên. (Ảnh: Yến Nguyệt)
Những vấn đề cần đổi mới như thể chế (luật pháp, văn hóa), tư duy, chương trình, phương pháp, giáo viên, người lãnh đạo, tổ chức và quản trị cơ sở giáo dục… Trong nhiều nhiệm vụ phải triển khai, cần có chiến lược lựa chọn cho những nhiệm vụ ưu tiên nhất để bố trí nguồn lực và tạo điều kiện cho những nhiệm vụ còn lại khả thi hơn.
Cần hệ thống giáo dục “mở”
Về thể chế, làm sao để tạo nên hệ thống giáo dục mở và linh hoạt? Những vấn đề về quy hoạch mạng lưới, chỉ tiêu tuyển sinh, định mức, tiêu chuẩn kiểm định, đảm bảo chất lượng rất cần xem xét lại và chuyển mạnh sang quản lý chất lượng và hiệu quả đầu ra theo cơ sở dữ liệu.
Ngày nay tư duy về quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp cần chú ý đến tính mở và linh hoạt của hệ thống với cách tiếp cận khác trước đây để ban hành các quy định hợp lý. Định mức chỉ tiêu tuyển sinh theo số giảng viên và diện tích sàn trong bối cảnh ứng dụng công nghệ số sẽ không có ý nghĩa nhiều với công nghệ học online, các trường lớp học chia sẻ, không giới hạn về thời gian, không gian học tập.
Có những thách thức như lợi ích nhóm, niềm tin, thói quen, chuẩn mực hình thành từ quá khứ trong mỗi con người và tổ chức. Do đã quen với những tình huống, bối cảnh quá khứ và hiện tại, giờ chuyển đến bối cảnh khác, sẽ xuất hiện những tình huống mới đòi hỏi năng lực tư duy khác trước, phải có khả năng giải quyết những vấn đề có thể chưa từng xảy ra trong hiện tại và quá khứ.
Điều này đòi hỏi con người vừa hình dung được, vừa phải chủ động, sáng tạo trong phát hiện, hợp tác, xử lý vấn đề. Một người dù được đào tạo nhằm có kiến thức và kỹ năng số nhưng để áp dụng kiến thức, kỹ năng số ấy vào trong công việc hàng ngày, vào nghề nghiệp và trong tổ chức của mình cũng không dễ dàng.
Nhiều nơi đang hô hào chuyển đổi số rất mạnh, nhưng trong mỗi ngành cụ thể và từng đơn vị cấu thành tổ chức của ngành sẽ phải làm gì và làm như thế nào để chuyển đổi số hiệu quả vẫn là câu hỏi còn chưa được trả lời cụ thể qua việc xây dựng một khung chính sách, kế hoạch, lộ trình chuyển đổi số cho mỗi ngành. Sự chuyển đổi số không thể theo kiểu “nói suông” mà cần có sự chuyển đổi từ trong tư duy, hành động chứ không thể xem đó là việc của người khác, bởi như vậy sẽ khó tận dụng được cơ hội bên ngoài mang lại.
Ai sẽ phải chuyển đổi số?
Chủ thế của chuyển đổi số là con người. Trong giáo dục, chủ thể của chuyển đổi số là những người lãnh đạo, cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh, sinh viên. Vậy năng lực của những người này cần thay đổi thế nào? Những quy định nào về tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo, tiêu chuẩn nghề nghiệp phải thay đổi và điều chỉnh? Giáo viên cần những năng lực gì? Kỹ năng gì bổ sung để có thể dạy cho người học những kỹ năng số, từ việc thành thạo công nghệ thông tin và truyền thông, kỹ năng thông tin, xử lý dữ liệu, khai thác phương tiện?
Thực tế cho thấy, khi công nghệ được áp dựng vào nơi làm việc sẽ luôn có những nhóm người rất tích cực ủng hộ do người ta nắm được và trải nghiệm công nghệ đó. Nhưng cũng có một bộ phận không nhỏ sẽ là những rào cản cho ứng dụng công nghệ. Phần đông những người này chưa tự tin, thiếu năng lực, lo mất kiểm soát, xấu hổ và lo nhiều rủi ro việc làm đến với mình và luôn tìm cách kháng cự lại tiến trình đổi mới.
Như vậy, con người phải được bồi dưỡng tăng cường năng lực thông qua tự học và qua các lớp tập huấn. Tuy nhiên, điều này liên quan đến một số chính sách và cơ chế khác kéo theo cần được rà soát và điều chỉnh.
Video đang HOT
Có thể nói, người lãnh đạo là một chủ thể quan trọng hàng đầu cho đổi mới. Do vậy, ở họ rất cần việc thông thạo kỹ năng số, nếu thiếu năng động sáng tạo, không dám chấp nhận rủi ro sẽ là rào cản lớn nhất cho quá trình chuyển đổi.
Thay đổi thì dễ nhưng thay đổi tích cực và quản lý được sự thay đổi đòi hỏi người lãnh đạo quản lý tài giỏi và tâm huyết. Chuyển đổi số là một quá trình dân chủ hóa qua ứng dụng công nghệ. Mọi thông tin rất có thể được minh bạch hóa, khó có thể giấu giếm vào trong cái “hộp đen” của nhà quản lý.
Mọi người có thể dễ dàng tiếp cận được những thông tin cơ bản về chất lượng, nguồn lực và mọi chi phí, chính sách của cơ sở giáo dục, chương trình, văn bằng chứng chỉ cấp cho người học. Nguồn lực của tổ chức được kết nối, chia sẻ, sử dụng linh hoạt để tạo nên sức mạnh tổng hợp cho một tổ chức.
Người lãnh đạo sẽ có thể gặp phải những trở ngại chống đối từ một bộ phận giáo viên, đòi hỏi họ phải biết động viên, tạo động lực, tạo môi trưởng phát huy sáng kiến của các giáo viên đồng thời phải đầu tư vào công tác phát triển kỹ năng số cho đội ngũ giáo viên.
Đối với giáo dục, chương trình giáo dục cũng rất cần phải đổi mới để kết hợp giữa thế giới thực và thế giới ảo. Học trong môi trường ảo nhưng có khả năng vận dụng vào thực tế nơi làm việc mà không chăm chăm vào việc dạy những nội dung chỉ để cho học sinh, sinh viên qua được các kỳ kiểm tra đánh giá.
Theo một nghiên cứu có đến 90% các môn học như Toán, Khoa học, Ngôn ngữ, Lịch sử, học sinh được dạy chỉ để cho vượt qua những kỳ thi kiểm tra. Như vậy, khi chuyển đổi số, việc làm của giáo viên sẽ khác trước khá nhiều, đòi hỏi phải thay đổi nội dung, phương pháp dạy và thi kiểm tra đánh giá, kéo theo đó là những quy định liên quan rất cần thay đổi. Giáo dục phải chuẩn bị cho học sinh ngay từ khi còn ở trường mẫu giáo những kỹ năng thông tin từ sớm mà không phải đợi đến khi trẻ trưởng thành.
Ứng dụng công nghệ số trong quản trị nhà trường giúp nâng cao hiệu quả hoạt động, giảm bớt nhiều chi phí cho hội họp, quảng bá hình ảnh nhà trường, thông tin liên lạc giữa các thành viên, các đơn vị trong trường nhanh chóng, đầy đủ, tin cậy… giúp tập thể lãnh đạo trường ra quyết định nhanh chóng dựa trên thông tin có trong cơ sở dữ liệu.
Những công việc đánh giá giáo viên, thi đua khen thưởng, giám sát kế hoạch hoạt động, đảm bảo chất lượng được thực hiện dễ hơn, phân tích so sánh tốt hơn nhờ số hóa thông tin. Quá trình ra các quyết định quản lý sẽ nhanh chóng, linh hoạt và hiệu quả hơn nhờ hệ thống các cơ sở dữ liệu được tổng hợp, phân tích đánh giá tin cậy chính là cơ hội cho đổi mới tổ chức và quản trị nhà trường.
Chậm đổi mới, cơ hội sẽ xa dần
Chuyển đổi số bao gồm cả cơ hội và thách thức là quá trình thay đổi. Lúc này, cần biết chớp thời sẽ giúp cho tổ chức, bản thân nhiều cơ hội phát triển. Chậm chân, chậm đổi mới thì cơ hội sẽ xa dần.
Cũng phải nói thêm rằng, thay đổi thì dễ nhưng quản lý sự thay đổi mới khó. Vì thế, trong các giáo trình đào tạo khả năng lãnh đạo luôn có một nội dung thay đổi cách quản lý để dạy người ta xử lý đó là, thay đổi những gì? Tại sao phải thay đổi? Thay đổi như thế nào? Khi nào thay đổi? Ai thay đổi?.
Chúng ta từng chứng kiến khá nhiều ý tưởng đổi mới không hiện thực hoá được trong cuộc sống? Không ít những chính sách với nhiều ý tưởng sáng tạo nhưng vào cuộc sống lại bị nhiều rào cản, trong đó, rào cản lớn nhất là thể chế với việc thiếu đồng bộ và hệ thống.
Như Michael Fullan, chuyên gia về thay đổi hệ thống giáo dục có nói đại ý: Mọi ý tưởng tốt nếu không biết tổ chức thực hiện được ý tưởng là sự lãng phí ý tưởng. Việc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số ở Việt Nam là ý tưởng tốt nhưng khi thực hiện rất cần có chiến lược, kế hoạch và lộ trình cụ thể để huy động nguồn lực trong xã hội.
Ngoài những yếu tố cản trở đổi mới thể chế như năng lực đội ngũ, khả năng nguồn lực hạn chế thì văn hoá của một quốc gia là rào cản của đổi mới thể chế. Vì thế, để tạo ra thay đổi đột phá về thể chế gặp thách thức vì thói quen, tư duy truyền thống, những giả thiết quá khứ, quan niệm chuẩn mực, giá trị, sự chấp nhận rủi ro của người trong cuộc, của các nhóm lợi ích còn dai dẳng.
Do đó, rất cần tạo ra sự thay đổi trong giáo dục nhưng điều cốt lõi là người trong cuộc phải có kỹ năng quản lý sự thay đổi, nhưng vai trò quan trọng vẫn là người lãnh đạo của nhà trường. Những người lãnh đạo cần được đào tạo nâng cao năng lực để xác định tầm nhìn đúng đắn, huy động mọi người đi theo tầm nhìn, thống nhất ý chí và hành động. Đồng thời, bồi dưỡng kỹ năng quản trị nhà trường.
Sẽ có rất nhiều rào cản xuất hiện giữa các nhóm trong tổ chức, sự xung đột về văn hoá tổ chức, xung đột niềm tin, quan niệm về giá trị, lợi ích… Người lãnh đạo phải biết xử lý các xung đột này và vừa thuyết phục, vừa làm gương, vừa khen thưởng nhưng cũng đừng quên kỷ luật khi có nhân viên chống đối.
Trong giáo dục, để có thể chuyển đổi số thành công cần lựa chọn việc nào cần ưu tiên làm trước như phải khai thông những rào cản về thể chế chính thức và phi chính thức một cách đồng bộ và hệ thống bằng cách cần rà soát tổng thể tất cả các văn bản quy phạm pháp luật liên quan và sau đó là tăng cường năng lực người đứng đầu và đội ngũ thực hiện chuyển đổi số để xây dựng một khung chính sách làm tiền đề chuyển đổi số cho ngành giáo dục.
Giáo viên phải làm gì để khỏi phạm sai lầm?
Rất nhiều giáo viên đã làm nghề mà không được học một cách cơ bản về quyền con người, quyền trẻ em, tâm lý học trẻ em, các vấn đề lâm sàng của trường học...
Vụ việc một nữ sinh ở An Giang tự tử bất thành vì bức xúc với ứng xử của giáo viên và hình thức kỷ luật của nhà trường đang gây xôn xao trong dư luận. May mắn trong chuyện này là nữ sinh không bị mất đi sinh mạng. Rồi đây, dư luận cũng sẽ lắng xuống sau khi cơ quan quản lý có những "biện pháp thích hợp" để làm an lòng người dân.
Tuy nhiên, nếu nhìn nhận ở góc độ chuyên môn và một cách có hệ thống ta sẽ cảm thấy bất an. Sự việc này chỉ là một trong một chuỗi rất nhiều sự việc khác xảy ra ở trường học như giáo viên bạo hành học sinh, giáo viên trù dập vì học sinh không học thêm, giáo viên chửi mắng xúc phạm học sinh...
Nếu dùng Google tìm kiếm các từ khóa trên trong khoảng vài giây, số lượng kết quả thông tin tìm thấy sẽ khiến ta giật mình. Cách thức biểu hiện của từng vụ việc và hậu quả của nó là khác nhau, nhưng xâu chuỗi lại ta sẽ thấy một điểm chung là giáo viên và nhà trường, mà cụ thể là các cán bộ quản lý giáo dục đã phạm sai lầm trong mối quan hệ với học sinh.
Lý luận giáo dục hiện đại chỉ ra rằng hiệu quả giáo dục cao hay thấp, mục tiêu giáo dục đạt được hay không, người thầy có thể gây được ảnh hưởng tốt lên học sinh hay không suy cho đến cùng, phụ thuộc vào mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh.
Như vậy có thể thấy những sai lầm của giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, nhà trường ở đây là những sai lầm rất cơ bản. Có nhiều nguyên nhân gây ra những sai lầm trên nhưng có thể chỉ ra một số nguyên nhân chủ yếu:
Thứ nhất , ở Việt Nam như "một truyền thống" có tính chất lịch sử, người ta hay quan niệm nghề giáo là nghề "nhàn nhã" và "ổn định", vì vậy nhiều người đã động viên, ép buộc con em mình học sư phạm rồi trở thành giáo viên trong một cảm quan rất hời hợt về sứ mệnh của nghề nghiệp.
Sai lầm đầu tiên về tư duy, triết lý này là bước đệm kéo theo những sai lầm tiếp sau đó. Hỗ trợ đắc lực cho sai lầm này là việc tuyển học sinh vào các trường sư phạm để học và trở thành giáo viên về cơ bản chỉ dựa trên điểm số của bài thi trên giấy và học bạ (không tính các ngành có thi năng khiếu). Không có bài viết luận, không có phỏng vấn thì rất khó để thẩm định sơ bộ về ý chí, năng lực giao tiếp và nhận thức về sứ mệnh người thầy.
Ai dám chắc cái roi ngày xưa nay đã hoàn toàn biến mất trong lớp học thế kỷ XXI? Ảnh: TL
Thứ hai , làm việc trong các trường công lập hầu hết cán bộ, giáo viên đều là công chức, viên chức, nghĩa là bản thân họ là một mắt xích trong hệ thống hành chính công. Cơ chế vận hành của hành chính giáo dục hiện nay mang nặng tính trung ương tập quyền với áp lực từ trên xuống rất mạnh. Những chỉ thị, mệnh lệnh và uy quyền của cấp trên mang tính tuyệt đối. Trong cơ chế đó, ý thức mình chỉ là người "thừa hành", "thực thi" những chỉ thị, mệnh lệnh từ trên đưa xuống ở người giáo viên rất mạnh.
Sự cộng hưởng của các yếu tố trên khiến cho người giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục dễ rơi vào "mê hồn trận của trò chơi quyền lực". Họ dễ phạm sai lầm khi có ảo tưởng quyền uy nghề nghiệp là quyền lực của bản thân, điều mà chuyên gia người Nhật Tanaka Yoshitaka đã chỉ rõ trong cuốn sách Cải cách giáo dục Việt Nam: Liệu có thực hiện được lấy học sinh làm trung tâm? (NXB Phụ Nữ, 2020).
Khi không có ý thức về việc ảo tưởng và lạm dụng quyền lực, người giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục dễ phạm sai lầm, làm tổn thương, gây nguy hiểm tới học trò. Những sự vụ được đưa trên mặt báo chủ yếu diễn ra ở trường công cũng là một dữ liệu đáng suy ngẫm.
Thứ ba , cho dù giáo viên là người được đào tạo có trình độ nhất định và có học vấn cao hơn người bình thường, cá nhân họ vẫn dễ rơi vào ảo giác của một thứ quyền lực và quyền uy có tên "gia trưởng". Đây là di sản nặng nề của lịch sử và văn hóa. Người thầy rất dễ bị cảm giác gia trưởng chi phối khi coi "học trò cũng là con" và vì thế mình phải "dạy dỗ" như là cha mẹ!
Trong xã hội xưa, người thầy của trò đồng thời là người thầy của xã hội (quân-sư-phụ) vì thế cho dù xã hội đã đổi thay, tư tưởng gia trưởng khi áp đặt quan hệ thầy - trò có tính chất giống như quan hệ gia đình (chú bác - cháu, bố mẹ - con) vẫn còn đất sống.
Đây là một sai lầm rất cơ bản vì giữa thầy và trò hoàn toàn không có sự liên hệ và ràng buộc về huyết thống. Người thầy cũng không có cơ hội trải nghiệm cùng học trò ở những khoảng không gian riêng tư. Một người mẹ, một người bố khi nóng giận có thể sai lầm khi quát vào mặt con hoặc nói đôi lời gây tổn thương... nhưng sau đó họ còn có nhiều cơ hội để ôm con, ru con ngủ, cho con ăn, cho con uống thuốc, âu yếm, vuốt ve con.
Từ đó người con có thể cảm nhận được tình máu mủ, sự yêu thương ẩn dưới vẻ ngoài thô ráp, vụng về của cha, mẹ và có thể khoan dung, tha thứ. Tuy nhiên ở trường hợp của thầy cô thì không có những cơ hội đó. Thầy cô đối xử thô bạo với học trò có thể trong tâm thức gia trưởng, muốn dạy dỗ học trò và rồi quên ngay nhưng sự ám ảnh, sự tổn thương ở học trò thì còn lại mãi.
Thứ tư, trong xã hội bất đối xứng thông tin trước đó, chỉ một tầng lớp có khả năng biết đọc, viết, tính toán, nhận và truyền tin bằng chữ viết, vì vậy người thầy độc tôn thông tin, tri thức, do đó có quyền uy lớn.
Tuy nhiên khi xã hội công nghiệp hóa mạnh, internet phủ sóng, xuất bản bùng nổ cộng với đại chúng hóa đại học, người thầy không còn là người sở hữu thông tin duy nhất và nhiều người làm các lĩnh vực khác có học vấn thậm chí cao hơn người thầy.
Song, tâm thế coi mình là trung tâm tri thức duy nhất vẫn chảy trong người giáo viên và dễ làm cho họ trở thành người bảo thủ, tiến hành công việc "từ trên xuống" như là một sự truyền dạy, giáo huấn thay vì hợp tác, đối thoại và học hỏi lẫn nhau (người thầy hiện đại phải là người luôn học hỏi từ trò, xã hội, đồng nghiệp, phụ huynh, các nguồn thông tin khác như internet, sách báo...) để tiến lên trong tư tưởng, nhận thức và chuyên môn.
Cho dù giáo viên là người được đào tạo có trình độ nhất định và có học vấn cao hơn người bình thường, cá nhân họ vẫn dễ rơi vào ảo giác của một thứ quyền lực và quyền uy có tên "gia trưởng".
Thứ năm , trong cơ chế hành chính giáo dục trung ương tập quyền với sự hạn chế lớn về tính dân chủ và thừa nhận tự trị, tự chủ ở địa phương, trường học, người giáo viên phải gánh chịu áp lực lớn từ cấp trên cũng như những khó khăn trong đời sống (vật chất và tinh thần) nhưng họ lại không biết cách chuyển hóa lành mạnh áp lực đó; dẫn đến hướng áp lực đó, xả áp lực đó vào kẻ yếu hơn mình. Nói nôm na là "giận cá chém thớt". Trong mê trận đó thì học sinh là thực thể yếu nhất và dễ gánh hậu quả nhất.
Thứ sáu, do lạc hậu về lý luận giáo dục và hạn chế trong hệ thống đào tạo giáo viên cũng như những hạn chế về môi trường tự học, tự đào tạo, rất nhiều giáo viên thiếu hiểu biết về những vấn đề của giáo dục nhìn từ góc độ khách quan, vĩ mô và hệ thống. Biểu hiện rõ rệt nhất là hành xử kiểu cảm tính theo kinh nghiệm, cảm xúc và thi hành mệnh lệnh máy móc.
Cuối cùng là sự thiếu hiểu biết về pháp luật và kiến thức về giáo dục học, tâm lý học, nhất là tâm lý học lâm sàng trường học và tâm lý học trẻ em. Rất nhiều giáo viên đã làm nghề mà không được học một cách cơ bản về quyền con người, quyền trẻ em, tâm lý học trẻ em, các vấn đề lâm sàng của trường học... Khi thiếu kiến thức người ta sẽ nghĩ quẫn, làm liều, miễn cho xong việc hoặc vừa lòng cấp trên.
Tất cả những vấn đề trên tác động qua lại với nhau tạo ra một cơ chế chi phối người giáo viên rất phức tạp, khiến họ dù không phải là người xấu vẫn dễ phạm sai lầm, và thậm chí cho dù đã phạm sai lầm và bị xử lý kỷ luật, bị dư luận lên án vẫn không nhận ra mình đã sai lầm thế nào và do đâu.
Từ việc chỉ ra các nguyên nhân trên ta sẽ thấy trong bối cảnh hiện tại khi vĩ mô chưa có sự chuyển biến căn bản, để tránh phạm phải sai lầm, người giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục phải tự phản tỉnh, khiêm tốn học hỏi, cầu thị để nâng tầm tư tưởng, nhận thức của bản thân, nỗ lực giải quyết các vấn đề mình có thể trong ý thức sâu sắc về những vấn đề lớn của nền giáo dục.
Diễn đàn "chuyên biệt" cho học viên, nghiên cứu sinh Học viện Quản lý Giáo dục Sáng 29/12, Học viện Quản lý Giáo dục tổ chức Hội thảo khoa học học viên, nghiên cứu sinh năm 2020. Toàn cảnh hội thảo. Phát biểu khai mạc, GS.TS Phạm Quang Trung - Giám đốc Học viện Quản lý Giáo dục ghi nhận và đánh giá cao Phòng Sau đại học đã có sáng kiến tổ hội thảo này. Đây là diễn...