3 bước giảm nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ mãn kinh
Bước vào thời kỳ mãn kinh, người phụ nữ thường phải đối mặt với những rối loạn về nội tiết và tâm sinh lý.
Sự rối loạn nội tiết tố sẽ kéo theo nhiều vấn đề sức khỏe khác. Một trong những nguy cơ đó là ung thư vú.
1. Nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ mãn kinh
Ung thư vú là bệnh lý ác tính hàng đầu về tỷ lệ mắc và tử vong ở nữ giới. Các yếu tố nguy cơ mắc ung thư vú được xác định bao gồm: tuổi cao, tiếp xúc với các chất sinh ung thư trong môi trường, hút thuốc lá, uống rượu, thừa cân, béo phì, ít vận động và một số yếu tố di truyền.
Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ đã thống kê danh sách các yếu tố nguy cơ ung thư vú liên quan đến lối sống, trong đó có thừa cân hoặc béo phì sau khi mãn kinh. Theo cơ quan này, thừa cân hoặc béo phì sau thời kỳ mãn kinh làm tăng nguy cơ ung thư vú.
Trước khi mãn kinh, buồng trứng của phụ nữ sản xuất hầu hết estrogen và mô mỡ chỉ sản xuất một phần nhỏ tổng lượng. Sau khi mãn kinh (khi buồng trứng ngừng sản xuất estrogen), hầu hết estrogen đến từ mô mỡ. Có nhiều mô mỡ hơn sau khi mãn kinh có thể làm tăng mức estrogen và tăng nguy cơ mắc ung thư vú.
Phụ nữ thừa cân cũng có xu hướng có mức insulin trong máu cao hơn. Mức insulin cao hơn có liên quan đến một số bệnh ung thư, bao gồm cả ung thư vú.
Phụ nữ thừa cân hoặc béo phì sau mãn kinh dễ có nguy cơ ung thư vú.
Tuy nhiên, mối liên hệ giữa cân nặng và nguy cơ ung thư vú vẫn rất phức tạp. Cụ thể: Nguy cơ ung thư vú sau mãn kinh cao hơn ở những phụ nữ tăng cân khi trưởng thành. Đối với những phụ nữ thừa cân hoặc béo phì trước thời kỳ mãn kinh, nguy cơ thấp hơn. Lý do cho việc này vẫn chưa thực sự rõ ràng.
Video đang HOT
Cân nặng cũng có thể có tác động khác nhau đến các loại ung thư vú khác nhau. Cụ thể: Tình trạng thừa cân sau thời kỳ mãn kinh có liên quan chặt chẽ hơn đến nguy cơ mắc ung thư vú dương tính với thụ thể hormone. Một số nghiên cứu cho thấy, tình trạng thừa cân trước khi mãn kinh có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú ba âm tính, loại ung thư ít phổ biến hơn.
2. Các bước phụ nữ nên làm để giảm nguy cơ ung thư vú
Không có cách nào chắc chắn để ngăn ngừa ung thư vú, nhưng có những thay đổi chị em phụ nữ có thể làm để giảm nguy cơ mắc bệnh. Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, nhiều yếu tố nguy cơ ung thư vú nằm ngoài tầm kiểm soát nhưng các yếu tố nguy cơ khác có thể thay đổi được bao gồm thay đổi lối sống như vận động thể chất và duy trì cân nặng khỏe mạnh. Thực hiện những thay đổi này có thể làm giảm nguy cơ mắc ung thư vú. Các bước mà tất cả phụ nữ có thể thực hiện là:
Đạt được và duy trì cân nặng khỏe mạnh
Cả việc tăng cân và tăng cân khi trưởng thành đều có liên quan đến nguy cơ ung thư vú cao hơn sau thời kỳ mãn kinh. Phụ nữ nên duy trì cân nặng khỏe mạnh trong suốt cuộc đời và tránh tăng cân quá mức bằng cách cân bằng lượng thức ăn nạp vào với hoạt động thể chất.
Hãy hoạt động thể chất
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng hoạt động thể chất vừa phải đến mạnh có liên quan đến việc giảm nguy cơ ung thư vú, vì vậy việc hoạt động thể chất thường xuyên là rất quan trọng.
Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ khuyến cáo, người lớn nên tập ít nhất 150 đến 300 phút cường độ vừa phải hoặc 75 đến 150 phút cường độ mạnh mỗi tuần (hoặc kết hợp cả hai), tốt nhất là trải đều trong suốt tuần. Đạt hoặc vượt quá giới hạn trên là 300 phút là lý tưởng.
Hoạt động vừa phải là bất kỳ hoạt động nào khiến bạn thở mạnh như khi đi bộ nhanh. Nó làm tăng nhẹ nhịp tim và nhịp thở. Bạn có thể nói chuyện nhưng không hát được trong khi hoạt động.
Hoạt động mạnh là hoạt động được thực hiện ở cường độ cao hơn. Hoạt động mạnh làm tăng nhịp tim, đổ mồ hôi và nhịp thở nhanh hơn.
Hoạt động thể chất thường xuyên giúp giảm nguy cơ ung thư vú.
Ăn uống lành mạnh
Thực hiện chế độ ăn uống lành mạnh bao gồm nhiều loại rau, trái cây với nhiều màu sắc khác nhau, các loại đậu và ngũ cốc nguyên hạt. Đồng thời tránh hoặc hạn chế thịt đỏ và thịt đã qua chế biến, đồ uống có đường, thực phẩm chế biến sẵn, các sản phẩm ngũ cốc tinh chế. Chế độ ăn uống này cung cấp các chất dinh dưỡng quan trọng giúp phụ nữ duy trì cân nặng hợp lý và giảm nguy cơ ung thư vú.
Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ cũng cho biết, mối liên hệ giữa chế độ ăn uống và nguy cơ ung thư vú vẫn chưa rõ ràng nhưng đây là một lĩnh vực nghiên cứu đang được quan tâm. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, chế độ ăn nhiều rau, trái cây và các sản phẩm từ sữa giàu canxi, nhưng ít thịt đỏ và thịt chế biến có thể giúp giảm nguy cơ ung thư vú.
Cảnh báo ung thư vú ở đàn ông
Nghiên cứu gần đây cho thấy tỉ lệ ung thư vú ở nam giới đã tăng 26% trong 25 năm qua; hơn 10% đi khám thì khối u đã di căn lan sang các mô lân cận
Bị sưng đau, sờ thấy khối u nhỏ ở dưới núm vú bên trái nhưng uống thuốc không đỡ, ông N.V.H. (46 tuổi, ở Hà Nội) đến Bệnh viện (BV) Bạch Mai (Hà Nội) kiểm tra. Bác sĩ thông báo kết quả bị ung thư vú khiến người đàn ông trung niên này ngỡ ngàng.
Gặp nhiều ở phụ nữ, "cửa tử" ở đàn ông
Ông H. băn khoăn không hiểu vì sao ở đàn ông lại bị ung thư vú - căn bệnh lâu nay chỉ thường gặp ở phụ nữ. Một năm trước, cơ thể ông H. xuất hiện khối u nhỏ dưới quầng vú trái, sờ không đau, không sưng nóng, không tụt núm; ông đi khám, điều trị theo toa thuốc của một phòng khám tư nhân. Gần đây, khối u to lên nhiều làm ông lo lắng. Đến BV kiểm tra, bác sĩ thông báo kết quả bị ung thư vú giai đoạn 3 khiến ông sững sờ. Do không phát hiện kịp thời, tế bào ung thư đã di căn đến các hạch bạch huyết ở lồng ngực, bệnh nhân phải xạ trị và thực hiện liệu pháp can thiệp.
Một trường hợp khác (75 tuổi, ở Nam Định) được Trung tâm Y học hạt nhân và ung bướu (BV Bạch Mai) tiếp nhận. Khoảng 6 tháng trước, tự sờ thấy có u vú trái, không đau và nghĩ là bình thường nên ông không điều trị. Gần đây, khối u to dần, kèm đau tức tuyến vú. Tại BV, ông được phát hiện ung thư tuyến vú trái giai đoạn 2 và phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến vú trái, vét hạch, đồng thời điều trị các liệu pháp toàn thân (hóa trị, nội tiết...) và theo dõi bệnh lý về tim mạch.
Tầm soát ung thư vú nam giới tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Ảnh: BVCC
Tại nhiều BV, chuyên khoa ung thư đều ghi nhận có bệnh nhân điều trị ung thư vú nam. Theo TS-BS Phạm Xuân Dũng, Giám đốc BV Ung Bướu (TP HCM), số bệnh nhân được BV tiếp nhận điều trị mỗi năm vài chục trường hợp, tập trung ở độ tuổi từ 50-60. Hầu hết bệnh nhân đều nhập viện ở giai đoạn trễ sau 2 năm phát bệnh, khi đó các tế bào ung thư đã di căn.
BS Nguyễn Triệu Vũ, Trưởng Khoa Ung Bướu - BV TP Thủ Đức (TP HCM), cho biết cứ 100 bệnh nhân ung thư vú thì có 99 người là phụ nữ, còn 1 người là nam giới. Chỉ riêng BV TP Thủ Đức mỗi năm tiếp nhận điều trị 2-3 bệnh nhân nam bị ung thư vú, đều ở độ tuổi trung niên. Họ đến BV vì thấy vú có sự thay đổi như tiết dịch ở núm vú, co kéo núm vú, có khối u gồ lên...
Theo TS-BS Vũ Hữu Khiêm, Trưởng Khoa Ung Bướu - BV Đa khoa Tâm Anh (Hà Nội), ung thư vú nam giới là bệnh lý ác tính với các tế bào ung thư hình thành từ trong mô tuyến vú và phát triển lan rộng ra toàn bộ vú. Sau đó, nó sẽ di căn sang các bộ phận khác trên cơ thể nếu không được điều trị kịp thời. "Nam giới mắc ung thư vú thường được chẩn đoán muộn dẫn đến tỉ lệ tử vong cao, tiên lượng điều trị kém khả quan" - BS Khiêm cảnh báo.
Phát hiện sớm: Yếu tố sống còn
Theo các bác sĩ, ung thư vú thường bị mặc định là căn bệnh chỉ phụ nữ mới mắc. Tuy nhiên, ở nam giới vẫn gặp và gây ra những biến chứng nguy hiểm, ảnh hưởng đến tính mạng. Nghiên cứu gần đây cho thấy tỉ lệ ung thư vú ở nam giới đã tăng 26% trong 25 năm qua và xu hướng đang tăng.
Đến nay vẫn chưa rõ nguyên nhân gây ung thư vú ở nam giới. Tuy nhiên, di truyền là yếu tố có thể làm tăng nguy cơ. Do đột biến ở một số loại gien, đặc biệt là gien có tên BRCA2 sẽ có nguy cơ mắc ung thư vú nam giới và ung thư tuyến tiền liệt cao hơn. Ngoài ra, có một số yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư vú ở nam giới là lớn tuổi (trên 60 tuổi), dùng thuốc liên quan đến estrogen (điều trị ung thư tuyến tiền liệt... )
Một nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng một trong số các nguyên nhân gây ra ung thư vú ở cả nam, nữ là do sự thay đổi hormone nội tiết. Ngoài ra, các yếu tố gây nguy cơ ung thư vú ở nam còn bao gồm hội chứng Klinefelter (tình trạng không phân ly nhiễm sắc thể ở nam giới), tinh hoàn lạc chỗ, viêm hoặc chấn thương tinh hoàn, cắt tinh hoàn, dậy thì muộn, vô sinh... Một số nguy cơ khác xuất phát từ vấn đề chức năng gan, béo phì, sử dụng thuốc phiện, bệnh tuyến giáp, tia bức xạ... Đặc biệt, có khoảng 20%-30% ung thư vú ở nam có nguy cơ từ các yếu tố gia đình.
Các chuyên gia khuyến cáo việc phòng ngừa, tầm soát bệnh ung thư vú nam hiện nay chưa được quan tâm nhiều. Về điều trị bệnh này ở nam giới cơ bản cũng như ở nữ giới gồm phẫu thuật, hóa trị, xạ trị... Một số khác biệt trong quá trình điều trị ở nam giới là do yếu tố nội tiết. Không như phụ nữ thường được mổ bảo tồn tuyến vú, bướu vú ở nam giới thường ít hơn nên phần lớn được cắt bỏ hết.
PGS-TS-BS Phạm Cẩm Phương, Giám đốc Trung tâm Y học hạt nhân và ung bướu, cho biết ngày nay bên cạnh những phương pháp điều trị căn bản (phẫu thuật, xạ trị, hóa trị, nội tiết, điều trị đích...) cũng có nhiều tiến bộ mới trong điều trị đã mang lại nhiều lợi ích hơn cho người bệnh, góp phần kéo dài thời gian sống cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh ung thư vú.
"Bệnh có thể điều trị khỏi nếu được phát hiện sớm và điều trị đúng, kịp thời. Ở giai đoạn sớm nhất, ung thư vú ở nam giới thường có thể được điều trị bằng thủ thuật cắt bỏ nhanh chóng và an toàn. Do đó, nam giới có nguy cơ cũng nên sàng lọc, chụp kiểm tra tuyến vú định kỳ hằng năm" - PGS Phương lưu ý.
6 loại thực phẩm bổ sung tốt nhất cho thời kỳ mãn kinh Các chất bổ sung có thể giúp khắc phục các triệu chứng như bốc hỏa, rối loạn giấc ngủ, giảm mật độ xương và nhiều vấn đề khác... thường xảy ra trong thời kỳ mãn kinh ở phụ nữ. Mãn kinh xảy ra khi phụ nữ trải qua 12 tháng mà không có chu kỳ kinh nguyệt, thường xảy ra trong độ tuổi...