Vắt kiệt sức cho những kỳ thi học sinh giỏi, còn đâu hạnh phúc tuổi thơ?
Thi học sinh giỏi, xu hướng đào tạo gà nòi đã lỗi thời đối với nền giáo dục hiện đại. Kiến thức trong thi học sinh giỏi không có tính ứng dụng với thực tiễn.
Mới đây, kết quả của kỳ thi học sinh giỏi Quốc gia được công bố, có đến 2278/4562 thí sinh đạt giải ở 12 môn thi (đạt gần 50% tổng số thí sinh dự thi) với 93 giải Nhất, 544 giải Nhì, 718 giải Ba và 923 giải Khuyến khích.
Mặc dù chúng ta đang đấu tranh với bệnh sính/ngụy thành tích trong giáo dục, lên án hình thức giáo dục theo kiểu “ học để thi”, nhưng thực tế, những kỳ thi học sinh giỏi hằng năm theo lối cũ – kiểm tra khả năng ghi nhớ kiến thức và mẹo giải bài vẫn được duy trì, những vinh danh, ưu tiên đối với học sinh giỏi vẫn chưa được thay đổi.
Điều này đặt ra cho dư luận nhiều câu hỏi, đặc biệt là về tính thực chất của kỳ thi này, liệu rằng việc đào tạo “học sinh giỏi” có thực sự cần thiết khi hình thức thi vẫn đang theo lối cũ, nội dung đề thi vẫn lặp lại những đơn vị kiến thức từ năm này qua năm khác.
Vắt kiệt sức cho những kỳ thi học sinh giỏi
Từng là một giáo viên dạy học tại trường chuyên, trực tiếp đào tạo đội tuyển học sinh giỏi, cô Phạm Thái Lê (hiện là giáo viên môn Ngữ Văn trường Marie Curie – Hà Nội) đã có những chia sẻ với phóng viên Tạp chí điện tử Việt Nam về quá trình đào tạo học sinh giỏi tại trường chuyên.
Theo cô Lê, khi tham gia những kỳ thi học sinh giỏi, cả người học và người dạy đều bị cuốn vào một cuộc chiến ròng rã và tốn nhiều công sức.
Học sinh tham dự kỳ thi học sinh giỏi quốc gia năm lớp 12 nhưng quá trình chọn đội tuyển đã bắt đầu từ năm lớp 10 với những kỳ thi tuyển chọn, vòng loại căng thẳng, khốc liệt.
“Những học sinh đặt mục tiêu phấn đấu vào đội tuyển học sinh giỏi quốc gia đều phải ôn luyện tích cực, trải qua nhiều vòng loại, lúc nào các em cũng phải “lên dây cót” tinh thần để theo đuổi một mục tiêu duy nhất, đi theo một con đường duy nhất.
Những đứa trẻ ấy đang phải bước vào một cuộc chiến mà người lớn vạch ra, các em đánh mất đi những năm tháng tuổi thơ, đánh mất hạnh phúc, không còn thời gian vui chơi, không có những giây phút vui vẻ trong cuộc sống.
Quá trình thi học sinh giỏi các cấp cũng tương tự như vậy, chúng ta đang tạo ra một guồng quay để học sinh, giáo viên, trường học chạy theo một mục tiêu ảo trong giáo dục “, cô Lê chia sẻ.
Cô Phạm Thái Lê cho rằng thi học sinh giỏi đánh mất đi hạnh phúc của người học (Ảnh: nhân vật cung cấp)
Bên cạnh đó, thi học sinh giỏi còn tồn tại một bất cập lớn, đó chính là học sinh thi một môn học và bỏ qua nhiều môn học khác.
Cô Lê chia sẻ: “Đây chính là hiện thực đang diễn ra ở nhiều trường học hiện nay. Với một học sinh nằm trong đội tuyển toán thì những môn học khác đều được ưu tiên bằng cách bỏ qua những môn học này.
Video đang HOT
Học sinh giỏi văn thì đa số các môn khoa học tự nhiên đều được tạo điều kiện để các em mang giải về cho nhà trường – thứ mà các trường vẫn đều gọi là thành tích, là điểm sáng trong giáo dục của mỗi trường”.
Một khi nền giáo dục chạy theo một mục tiêu ảo, một khi học sinh phải “vắt kiệt sức” cho kỳ thi học sinh giỏi thì môi trường giáo dục sẽ còn nhiều hệ lụy khác.
Không chỉ trải qua thời gian ôn luyện mệt mỏi, sau quá trình được đào tạo theo kiểu gà nòi, sau một cuộc đua hao tốn nhiều công sức, kết thúc kỳ thi, các em sẽ không còn động lực với việc học ở trường.
Đặc biệt, khi đã bỏ qua kiến thức của những môn học khác, học sinh sẽ không còn cảm thấy hứng thú với những môn học này, các em dễ rơi vào cảm giác hụt hẫng, không thể bắt nhịp trở lại với việc học.
“Việc bỏ qua những kiến thức cơ bản ở phổ thông còn dẫn tới sự lệch lạc, méo mó trong đào tạo con người. Mô hình trường chuyên, lớp chọn, đào tạo học sinh giỏi đã quá lỗi thời đối với nền giáo dục hiện đại.
Rõ ràng điều này mâu thuẫn với xu hướng, mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông mới là dạy học phát triển năng lực, phát triển phẩm chất học sinh, hướng đến đào tạo con người toàn diện”, cô Phạm Thái Lê nhấn mạnh.
Bỏ qua hạnh phúc của người học
Theo cô Phạm Thái Lê, kiến thức của cuộc thi học sinh giỏi không có nhiều ý nghĩa, không có tính ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống, kể cả đối với các môn khoa học tự nhiên.
Bản chất của những cuộc thi chỉ là truyền lại, lặp đi lặp lại những đơn vị kiến thức, thậm chí là chia sẻ những bí quyết, những tiểu xảo để người thi giải đề và đạt điểm cao.
Thực tế, những kỳ thi học sinh giỏi với cách ra đề như hiện nay không giúp rèn luyện tư duy, không phát năng lực, khả năng sáng tạo của con người, không gắn liền với thực tiễn và không giải quyết những vấn đề trong thực tiễn.
Thi học sinh giỏi đã lỗi thời với giáo dục hiện đại (Ảnh minh họa: Lã Tiến)
“Vì những lẽ đó, thành tích trong cuộc thi học sinh giỏi là không cần thiết, những con số, giải thưởng không nói lên được điều gì.
Đó không phải là thành tích đào tạo con người, mà là mục tiêu ảo của mỗi trường, các phòng, các sở tự đặt ra, hướng đến, đưa ra những con số để so sánh, đánh giá”, cô Lê nêu quan điểm.
Lý giải về sự tồn tại của kỳ thi học sinh giỏi, cô Phạm Thái Lê cho rằng nguyên nhân là do tâm lý chuộng thành tích, các trường đang nhìn vào những con số, kết quả từ kỳ thi để làm mục tiêu giáo dục.
“Chính vì mải miết chạy theo mục tiêu thành tích từ những kỳ thi đó nên chúng ta đang bỏ qua những mục tiêu quan trọng khác của giáo dục, bỏ quên đi hạnh phúc của người học.
Đào tạo con người trong giáo dục hiện đại là chú trọng niềm vui, hạnh phúc cho người học thế nhưng chính những áp lực, guồng quay của những kỳ thi học sinh giỏi phải chăng đang “bóp chết” hạnh phúc của học sinh”, cô Lê chia sẻ.
Theo cô Lê, đã đến lúc xã hội phải nhìn nhận lại sự tồn tại của kỳ thi học sinh giỏi, kể cả những chính sách ưu tiên đối với những học sinh đạt giải trong kỳ thi này. Có nhiều chính sách ưu tiên như tuyển thẳng đại học với các học sinh đạt giải trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia. Điều này dễ dẫn đến xu hướng chạy theo thành tích, xảy ra những tiêu cực trong thi cử.
“Với mỗi kỳ thi học sinh giỏi, dường như người lớn đang ganh đua nhau và đang lôi kéo những đứa trẻ vào một cuộc đua căng thẳng, mệt mỏi. Trong khi ở lứa tuổi học sinh, các em cần có thời gian vui chơi, cần được trải nghiệm, cần có hạnh phúc trong môi trường giáo dục.
Thực tế hiện nay, những người trong cuộc, những người đã từng trực tiếp tham gia luyện thi đã cảm thấy bất bình, không còn hứng thú với kỳ thi học sinh giỏi. Mô hình trường chuyên, lớp chọn, quá trình đào tạo học sinh giỏi đã thực sự lỗi thời”, cô Lê khẳng định.
Vì sao môn Văn ngày càng kém hấp dẫn học sinh?
Ngữ văn là môn học quan trọng và cần thiết nhưng lại ngày càng kém hấp dẫn học sinh.
Cô Phạm Thái Lê, giáo viên Ngữ văn trường Marie Curie Hà Nội chia sẻ về cách dạy, học môn Ngữ văn trong trường phổ thông, từ đó nêu lý do khiến môn học trở nên nhàm chán với học sinh.
Dạy Văn để thi cử
Nhiều học sinh than thở các em không thích học Văn nhưng phải học để đi thi. Đi thi tất nhiên ai cũng mong được điểm cao nhưng cách cho điểm môn Văn lại theo barem điểm. Do vậy học sinh để có điểm cao môn Văn thì yêu thôi là chưa đủ mà cần phải học đủ ý như được dạy. Việc học thay vì tạo niềm vui lại trở thành nghĩa vụ bắt buộc.
Học Văn để đi thi là lý do chính khiến môn học này kém hấp dẫn học sinh và giáo viên. Những giáo viên dạy Văn có thể dạy thoáng, dạy mở ở các khối dưới. Nhưng đến năm cuối cấp phải gò học sinh ôn luyện phục vụ thi cử. Điều này hạn chế sự sáng tạo và cảm xúc của các em.
Dạy theo kiểu học thuộc, không tư duy
Xã hội đang nhìn nhận Ngữ văn là môn học thuộc. So với các môn tự nhiên Toán, Lý, Hóa, người học Văn không cần thiết phải tư duy quá nhiều. Chính quan niệm này làm giảm giá trị của môn Văn. Tuy nhiên phải nhìn nhận khách quan, sở dĩ xã hội có cái nhìn như vậy là bởi cách Ngữ văn trong nhà trường thiên về đọc chép, không chú trọng phát triển tư duy của học sinh.
Nguyên nhân sâu xa vẫn bắt nguồn từ câu chuyện thi cử. Bởi điểm thi môn học này được chấm theo barem điểm nên giáo viên sẽ dạy theo kiểu đọc chép. Học sinh làm bài chỉ cần đúng ý, đủ điểm và không dám phá cách.
Với cách dạy theo kiểu học thuộc sẽ hạn chế năng lực tư duy, phản biện xã hội của học sinh. Nhiều em sau khi ra trường cảm thấy tiếc nuối vì không học môn Văn tử tế. Nhưng các em cũng tâm sự thật, với cách dạy Ngữ văn khô cứng như hiện nay, chẳng mấy học sinh yêu thích môn học này.
Dạy thụ động, thiếu sự phản biện
Vài năm trở lại đây, trong cấu trúc đề thi Văn mới dè dặt thêm phần nghị luận xã hội. Trong khi đó nhiều nước đã có những đề thi Văn 100% là nghị luận xã hội. Nhiều học sinh so sánh cách viết văn bằng tiếng Anh và viết văn bằng Tiếng Việt. Các em thừa nhận thích viết văn bằng tiếng Anh hơn vì được thoải mái sáng tạo trên nhiều khía cạnh.
Chính sự thoải mái đó thúc đẩy sáng tạo, tư duy mở của học sinh. Do vậy muốn học sinh hứng thú với môn Ngữ văn cần phải thay đổi cấu trúc đề thi theo hướng tăng phần nghị luận xã hội, giảm phần nghị luận văn học.
Nghị luận xã hội chính là mảnh đất giúp học sinh khai phóng tư duy và bày tỏ chính kiến của mình. Giáo viên phải đưa được những vấn đề đa chiều và cho phép học sinh phản biện.
Dạy Văn để đi thi là một trong những lý do chính khiến môn học này nhàm chán. (Ảnh minh họa: VTV)
Dạy Văn mang tính áp đặt
Đối với môn Toán, Lý, Hóa học sinh có thể giải bài tập theo nhiều cách khác nhau chỉ cần đúng kết quả. Và chúng ta khen ngợi những các em đó là thông minh, sáng tạo. Nhưng không em nào học môn Ngữ văn khi đi thi lại dám viết lên suy nghĩ trái với những điều được dạy trên lớp. Đây là điểm hạn chế trong cách dạy môn Ngữ văn tại nhà trường khi nặng về tính áp đặt.
Hàng chục năm qua, chúng ta vẫn dạy học trò nhân vật chính diện luôn luôn là người tốt, nhân vật phản diện bắt buộc là người xấu. Nhưng cuộc sống này vốn đa chiều và xã hội luôn vận động. Bất kể một sự vật, hiện tượng, con người nào cũng có những mặt được và chưa được. Môn Văn phải khơi gợi được chính kiến của học sinh thay vì ép các em phải viết, nói những điều các em không nghĩ.
Chú trọng kỹ năng viết, bỏ qua đọc hiểu, nói
Trong môn Ngữ văn có 3 kỹ năng rất quan trọng bao gồm nói, viết và đọc hiểu. Nhiều nền giáo dục chú trọng đến việc dạy nói, đọc hiểu, viết cho trẻ. Nhưng học sinh Việt Nam chỉ được học viết chưa được dạy cách nói, đọc hiểu. Có thể nhìn thấy điểm yếu cố hữu của học sinh nước ta đó là kỹ năng nói rất yếu, không dám bày tỏ suy nghĩ cá nhân, không dám đứng thuyết trình trước đám đông.
Cho nên để môn Văn hấp dẫn với học sinh, giáo viên phải thay đổi cách dạy cho phép các em được nói, được bày tỏ quan điểm. Có như vậy cái gốc rễ mà môn Văn vun trồng mới bám chặt, bám sâu.
Nặng tính giáo điều, xa rời cuộc sống
Cách dạy Văn đi theo một lối mòn. Nhiều giáo viên thời đại 4.0 nhưng vẫn giữ một giáo án, phương pháp dạy cách đây hàng chục năm. Vì người ta ngại đổi mới nên mặc định chỉ dạy học sinh những điều có trong khuôn mẫu.
Trên thực tế, xã hội luôn vận động và phát triển. Nếu vẫn giữ khư khư cách dạy theo lối mòn học sinh sẽ nhàm chán. Những tác phẩm được lựa chọn đưa vào giảng dạy trong sách vở không phản ánh hết thực tế cuộc sống vốn đã sinh động. Cho nên để học sinh hiểu, tiếp thu và yêu môn học này, người giáo viên cần phải đổi mới phương pháp dạy, gắn chặt môn Văn với những bài học trong cuộc sống.
Suy cho cùng cái địch lớn nhất của việc học Văn là để trau dồi tâm hồn và học cách làm người. Nếu giáo viên không hướng học sinh đến những giá trị đó thì môn học này đương nhiên sẽ bị gắn mác nhàm chán.
Quảng Bình: Kết quả thi học sinh giỏi quốc gia cao nhất trong 10 năm :Kỳ thi học sinh giỏi Quốc gia năm 2021, có 41/62 học sinh của tỉnh Quảng Bình tham dự kỳ thi đạt giải. Đây là lần đầu tiên trong 10 năm qua ngành GD&ĐT Quảng Bình có được số lượng học sinh đạt giải nhiều nhất. Đội tuyển học sinh giỏi Văn của tỉnh Quảng Bình tham dự kỳ thi đã có 8/8...