Tự chủ đại học – cơ hội cho phát triển
Sau hơn một năm chính thức được quyền tự chủ theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (có hiệu lực từ ngày 1-7-2019), các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam đã có sự chuyển mình đáng kể.
Việc trao quyền tự chủ là cơ hội để các trường nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện, tạo sức bật cho phát triển.
Đẩy mạnh tự chủ, coi trọng quyền lợi người học là quyết tâm của nhiều cơ sở giáo dục đại học hiện nay. Trong ảnh: Một giờ thực hành của sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội. Ảnh: Đỗ Tâm
“Cởi trói” cho đào tạo đại học
Hiện việc thực hiện quyền tự chủ đã được thí điểm tại 23 cơ sở giáo dục đại học theo Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24-10-2014 của Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017. Quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học chính thức được luật hóa, quy định trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học, có hiệu lực từ ngày 1-7-2019. Theo đó, các cơ sở giáo dục đại học được phép tự chủ về hoạt động chuyên môn (mở ngành, tuyển sinh, đào tạo…), về tổ chức và nhân sự, về tài chính và tài sản. Đây được coi là cơ hội để các cơ sở giáo dục đại học “cởi trói”, tạo sức bật cho các trường phát triển.
Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Hoàng Minh Sơn cho rằng, hầu hết các cơ sở giáo dục đại học tham gia thí điểm tự chủ đều đã có sự bứt phá về chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học, tạo diện mạo mới cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Theo kết quả thí điểm tự chủ của 23 đơn vị (tính từ năm 2014 đến năm 2017), tỷ lệ tuyển sinh tăng từ 87% lên 92%; số chương trình đào tạo được kiểm định tăng từ 1 lên 100; nhiều cơ sở giáo dục đại học Việt Nam lọt vào bảng xếp hạng đại học uy tín của châu Á và thế giới.
Video đang HOT
Tuy nhiên, thực tế cho thấy vẫn còn nhiều cơ sở chưa có chuyển biến về chất lượng đào tạo; sinh viên còn thiếu kỹ năng; tỷ lệ tuyển sinh ở một số trường thấp… Theo Giáo sư Trần Đức Viên, Chủ tịch Hội đồng Học viện Nông nghiệp Việt Nam, nguyên nhân cơ bản là do nhiều trường vẫn quen được ngân sách “nuôi”, khi thực hiện tự chủ còn lúng túng. Còn theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Thị Lan Anh, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội, hệ thống quy định về tự chủ chưa đồng bộ, nên khó khăn khi thực thi. Một số trường chỉ chú trọng đến vấn đề tự chủ tài chính, bằng mọi giá tăng nguồn thu từ học phí, bỏ qua trách nhiệm xã hội, làm giảm cơ hội học tập của những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn…
Coi trọng quyền lợi của người học
Đẩy mạnh quyền tự chủ, tăng năng lực sáng tạo trong mọi hoạt động, coi trọng quyền lợi của người học là quyết tâm của nhiều cơ sở giáo dục đại học hiện nay.
Xác định tự chủ trong việc nâng cao chất lượng chuyên môn là điều kiện quan trọng hàng đầu để đẩy mạnh hiệu quả đào tạo, nâng cao kỹ năng cho sinh viên, Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh đã chủ động hợp tác với các doanh nghiệp. Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh Trần Đình Lý cho biết, nhà trường đã thành lập Trung tâm Hỗ trợ sinh viên và quan hệ doanh nghiệp; triển khai nhiều hoạt động hợp tác giữa nhà trường – doanh nghiệp trong đào tạo, sử dụng nhân lực, coi trọng sự phản hồi của doanh nghiệp về chất lượng đào tạo. Ngoài ra, nhà trường còn phối hợp với doanh nghiệp để triển khai nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, vừa nâng cao năng lực cho nhà trường, vừa tăng kỹ năng cho sinh viên.
Với kinh nghiệm của một đơn vị đã thực hiện thí điểm tự chủ thành công, Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Huỳnh Quyết Thắng thông tin, nhà trường thực hiện đồng bộ việc đổi mới chính sách học phí, học bổng. Phần kinh phí có được từ nguồn học phí tăng thêm được sử dụng để cải thiện điều kiện học tập, nghiên cứu cho sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Các sinh viên tài năng và sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, sinh viên thuộc diện chính sách được hưởng chính sách học bổng với mục tiêu khích lệ sự cố gắng và tạo cơ hội, điều kiện học tập bình đẳng, hiệu quả nhất.
Để tháo gỡ căn bản những “điểm nghẽn” trong quá trình tự chủ, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Hoàng Minh Sơn đề xuất, Quốc hội, Chính phủ rà soát, từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản đồng bộ cho việc thực hiện cơ chế tự chủ, đồng thời tăng tỷ trọng đầu tư ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học. Bộ Giáo dục và Đào tạo có cơ chế giám sát các cơ sở giáo dục thực hiện việc tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình, coi trọng trách nhiệm giải trình với người học, với xã hội về chính sách chất lượng và cam kết bảo đảm chất lượng; công khai điều kiện bảo đảm chất lượng, kết quả kiểm định, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm…
“Bộ sẽ tiếp tục tuyên truyền, nâng cao nhận thức về tự chủ; tăng cường công tác thanh tra, giám sát và quản lý chất lượng đào tạo đại học, quyết tâm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện trong việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Hoàng Minh Sơn nhấn mạnh.
Hội đồng trường Đại học: Vẫn hữu danh vô thực
Một trong những vấn đề liên quan đến tự chủ đại học đó là cuộc chuyển giao quyền lực từ cơ quan sở hữu sang Hội đồng trường (đối với các trường ĐH công lập). Nhưng thực tế cho thấy Hội đồng trường hiện nay vẫn chỉ là hữu danh vô thực.
Theo GS. TS Trần Đức Viên, Chủ tịch Hội đồng Học Viện Nông nghiệp Việt Nam cho biết theo yêu cầu của Nghị định hướng dẫn thực hiện Luật giáo Giáo dục ĐH sửa đổi 2018 (hay còn gọi là Luật số 34), chậm nhất là sau 6 tháng (nghĩa là hạn chót là ngày 15/8/2020), tất cả cơ sở giáo dục ĐH công lập, trừ khối trường công an, quân đội, phải có hội đồng trường được thành lập theo quy định của Luật.
Nhưng đến ngày 30/10 vừa qua, theo báo cáo của cơ quan chức năng mới có 31/35 cơ sở giáo dục trực thuộc Bộ GD&ĐT (4 đơn vị đang tiến hành quy trình), 54 cơ sở giáo dục ĐH trực thuộc các Bộ, ngành khác thành lập Hội đồng trường theo Luật mới, trên tổng số 175 trường ĐH công lập (chiếm 46,3%). Bộ GD&ĐT đang tiếp tục đốc thúc các cơ quan quản lý trực tiếp của các trường ĐH để đến hết năm nay về cơ bản các trường ĐH công lập đều có Hội đồng trường.
"Nếu thiếu vắng sức ép về mặt hành chính, thì không ít trường gần như vẫn tìm cách để đứng ngoài cuộc; với các trường đã thành lập Hội đồng trường, thì dường như thiết chế này hoặc là vẫn đang hoạt động như một bộ máy quản lý mở rộng của Hiệu trưởng hoặc là một tổ chức tư vấn cho hiệu trưởng", GS. Trần Đức Viên khẳng định.
Hay nói như TS. Mai Văn Tỉnh, nguyên chuyên viên cao cấp của Bộ GD&ĐT, mặc dù đã quy định trong luật nhưng thực tế vai trò, nhiệm vụ của hội đồng trường trong các cơ sở giáo dục ĐH tự chủ vẫn chưa rõ ràng. Nhiều người ví von hội đồng trường giống như "hồn Trương Ba, da hàng thịt" và cho rằng một trong những nguyên do dẫn tới lúng túng của các trường là do việc xây dựng luật chưa thực sự đứng trên góc độ của các trường.
Và nếu việc thực thi không mang tính thực chất, minh bạch, không ai đảm bảo hội đồng trường làm tốt yêu cầu giải trình xã hội. Bởi nếu hội đồng trường mà đa số thành viên là người của trường vẫn sẽ chỉ đứng về lợi ích của trường, không phải vì người học.
Ở góc nhìn của cơ quan giám sát của Quốc hội, ông Nguyễn Tất Thắng, Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, đưa ra nhận định của ủy ban khi giám sát thực tiễn triển khai tự chủ ĐH: thiết chế hội đồng trường của nhiều cơ sở giáo dục ĐH vẫn còn mang nặng tính hình thức, không hiệu quả vì chưa có sự phân chia mạch lạc, rõ ràng vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hội đồng trường trong quan hệ với bên ngoài và nội bộ trường, trong quan hệ với hiệu trưởng, với các tổ chức đoàn thể, chính trị khác.
Vẫn chưa muốn bỏ cơ quan chủ quản?
Phân tích mối quan hệ giữa cơ sở giáo dục ĐH với cơ quan chủ quản, GS. TS Trần Đức Viên cho hay trong quá trình vận hành tự chủ ĐH, người ta thấy phản ứng của các trường ĐH với cơ quan chủ quản có thể chia làm hai nhóm: Hoặc là chưa muốn từ bỏ cơ quan chủ quản, chưa muốn thoát ra khỏi cơ chế cũ, phát triển tuy có chậm đấy, nhưng lành và an toàn; hoặc là đón nhận cơ chế tự chủ ĐH như đón một luồng sinh khí mới, đòi hỏi cơ quan chủ quản trả lại các quyền tự chủ đã được luật định để có thể phát huy cao nhất các lợi thế do tự chủ ĐH mang lại.
Một số ít trường thuộc loại này thường có khúc mắc và đôi khi là xung đột về tự chủ ĐH với cơ quan chủ quản. GS. Viên nêu thực tế tình trạng số đông vẫn muốn duy trì lề thói tuân thủ quản lý từ trên xuống và hiện tượng một vài xung đột giữa cơ quan chủ quản với trường trực thuộc thời gian qua đã gióng lên hồi chuông báo động về việc "cái áo" của cơ chế chủ quản cũ đã chật hẹp, cần phải giải quyết mối quan hệ này một cách căn cơ, bài bản, khoa học.
"Có như thế mới giúp hai bên "tâm phục khẩu phục" để từng bước xóa bỏ cơ chế chủ quản theo tinh thần của Chính phủ, để các trường "gọi dạ bảo vâng" buộc phải trưởng thành; còn các trường muốn bứt phá thì có khung pháp lý đủ rộng cho họ tự tin bước trên con đường tự chủ vì đã được pháp luật bảo vệ. Tại sao có sự chậm chạp đến như vậy? Rõ ràng là còn có những điều gì đó chưa thực sự tạo ra động lực và nguồn lực cho tự chủ ĐH, có thể là do môi trường cho tiến trình nàycủa chúng ta còn đang ở tình trạng 'trong chưa ấm, ngoài chưa êm", GS. Trần Đức Viên thông tin.
Theo ông, trong quá trình đổi mới giáo dục ĐH, cơ chế quản lý theo tư duy "bao cấp, kế hoạch hóa" đã được cải tiến dần, nhà nước ngày càng giao thêm quyền tự chủ về nhiều mặt cho trường ĐH. Nhưng việc dịch chuyển từ hệ thống ĐH dựa vào nhà nước sang hướng vào thị trường, cũng như từ bỏ một thói quen cũ, một tư duy cũ là mối quan hệ giữa 3 thiết chế lãnh đạo-quản trị-quản lý trường ĐH (Đảng ủy-Hội đồng trường-Ban giám hiệu) không phải là câu chuyện ngày một ngày hai, nhất là khi những điều đó đã thấm vào con người, trở thành một thứ văn hóa trong quản lý, điều hành.
Thêm nữa, cho đến nay, hai lĩnh vực quyết định quan trọng nhất trong hoạt động, là tài chính và nhân sự chủ chốt của trường ĐH trực thuộc, phần lớn vẫn nằm trong tay bộ chủ quản. Cụ thể là kinh phí hàng năm cho các trường ĐH do bộ chủ quản phân phối theo cơ chế cấp phát còn đậm chất xin-cho, các nhân sự quan trọng nhất của trường ĐH, trong đó có hiệu trưởng, hiệu phó do bộ chủ quản quy hoạch, 'phê chuẩn kết quả bầu, phê chuẩn kết quả miễn nhiệm...
Bộ chủ quản vẫn có cơ chế kiểm soát trường trực thuộc về nhiều mặt và trường trực thuộc phải có trách nhiệm báo cáo việc thực hiện các hoạt động với bộ chủ quản. Trường ĐH, trên thực tế, không có quyền tự quyết định thực sự đối với nhiều vấn đề của cơ sở mình theo luật định. "Như một quán tính có từ thời bao cấp, nếu cơ quan chủ quản vẫn 'vô tư' can thiệp vào việc tác nghiệp thường ngày của nhà trường, điều đó sẽ hạn chế sự sáng tạo của cơ sở giáo dục, tạo ra sự ỷ lại vào cấp trên, sinh ra sự trì trệ của cả hệ thống", GS Viên nói.
Tự chủ đại học: Chưa chuyển biến đáng kể do nhiều vướng mắc Vướng mắc trong quan niệm, vướng mắc ở góc độ pháp lý, kể cả vướng mắc trong quản lý nhà nước là những khó khăn khiến tự chủ đại học ở Việt Nam những năm qua chưa có dấu ấn, bước tiến đáng kể. Tiếp nối thành công chuỗi hội thảo giáo dục được tổ chức hằng năm, ngày 27-11, Ủy ban Văn...