Thầy giáo không đứng trên bục giảng
Tại lễ vinh danh các nhà giáo tiêu biểu, có nhiều thành tích trong công tác giáo dục, đào tạo giai đoạn 2016-2020 do UBND tỉnh Hà Giang tổ chức, mọi người đều ngạc nhiên, trầm trồ thán phục khi một sĩ quan trẻ mang quân hàm xanh bước lên bục nhận thưởng kèm theo lời giới thiệu của ban tổ chức:
Thượng úy Lò Ngọc Quý, Đội trưởng Đội Vận động quần chúng, Đồn Biên phòng (ĐBP) Sơn Vĩ không chỉ là một cán bộ tâm huyết, uy tín với đồng bào địa phương mà còn là người bố nuôi kiêm “thầy giáo đa năng” đang trực tiếp chăm sóc, hướng dẫn học tập cho 6 học sinh lớp 7 là con nuôi của ĐBP Sơn Vĩ (BĐBP tỉnh Hà Giang)…
“Ông bố nhiều con”
Từ TP Hà Giang, chúng tôi ngược lên ĐBP Sơn Vĩ ở huyện Mèo Vạc, địa bàn được coi là xa xôi, hẻo lánh và khó khăn nhất của tỉnh Hà Giang, vào đúng ngày cái rét như cứa vào da thịt. Trước khi chúng tôi lên đường, Đại tá Lưu Đức Hùng, Chính ủy BĐBP tỉnh Hà Giang bảo: “Từ đây lên đó chừng 200km, đường sá nhiều chỗ khó đi lắm. Nhưng phải lên đấy mới hiểu được đời sống và bản lĩnh của bộ đội vùng biên, nhất là Thượng úy Lò Ngọc Quý đang trực tiếp chăm sóc 6 cháu học sinh. Hiện, ĐBP nào trong tỉnh cũng nhận nuôi từ 1 đến 2 cháu có hoàn cảnh đặc biệt, nhưng riêng ĐBP Sơn Vĩ nhận nuôi cùng lúc 6 cháu”.
Trời nhiều sương mù, đường lại quanh co, dốc gối dốc, nên khi chúng tôi đến nơi, màn đêm đã buông xuống từ lâu, chỉ thấy ánh đèn le lói hắt ra từ ĐBP Sơn Vĩ. Khu nhà nhỏ xinh xắn nằm ngay đỉnh dốc sát cổng vào đồn dành cho 6 cháu con nuôi cũng đã tắt điện. Thấy lấp loáng ánh đèn pin rọi quanh khu nhà, tôi tò mò tìm hiểu thì gặp ngay Thượng úy Lò Ngọc Quý.
Vừa lấy tay xoa vào nhau cho đỡ lạnh, Quý vừa chia sẻ: “Mấy hôm nay trời rét đậm, tôi sợ các cháu ngủ hay đạp làm rơi chăn xuống đất nên phải kiểm tra. Đồn nhận nuôi 6 cháu, trong đó 4 cháu nam, 2 cháu nữ đều ở tuổi 13, 14. Độ tuổi này, tính tình và cảm xúc của các cháu thay đổi thất thường nên càng phải kèm cặp, động viên, nhắc nhở thường xuyên anh ạ!”.
Nghe Quý tâm sự, tôi phần nào hình dung ra những khó khăn, vất vả của người bố nuôi và cán bộ, chiến sĩ nơi đây. Định hỏi Quý về lý do tại sao đồn còn khó khăn mà lại nhận nuôi cùng lúc 6 cháu, thì dường như đoán được ý của tôi, Quý chủ động kể: “Sau khi khảo sát trên toàn xã, chúng tôi thấy 6 cháu có hoàn cảnh rất đặc biệt, chịu nhiều thiệt thòi từ nhỏ. Trong đó, 2 cháu mất cả bố lẫn mẹ; có cháu bố mất sớm, mẹ đi lấy chồng. Các cháu còn lại đều khuyết bố hoặc mẹ… cuộc sống vô cùng khó khăn.
Anh em trong đồn đã bàn bạc kỹ và đều chung suy nghĩ, các cháu ở hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như vậy, nếu đồn không dang tay đón nhận, nuôi nấng, định hướng tương lai thì lỡ các cháu phải bỏ học sẽ rất thiệt thòi.
Từ đó, anh em mạnh dạn báo cáo cấp trên cho nhận nuôi cả 6 cháu. Khi được chỉ huy phân công là “bố nuôi”, trực tiếp phụ trách việc quản lý, chăm sóc, dạy bảo các cháu, tôi rất vui vì mình được tin tưởng và cũng mong sẽ góp phần giúp các cháu có tương lai tươi sáng. Tôi gọi điện về khoe với vợ: Từ nay nhà mình có tổng cộng là 8 con rồi nhé! Vợ tôi biết chuyện cũng rất vui, thường gọi đùa tôi là “ông bố nhiều con”…
Video đang HOT
“Bố Quý” chăm sóc từng bữa ăn cho các con.
“Thầy giáo”… đa di năng!
Sáng sớm hôm sau, khi màn sương dày đặc vẫn phủ kín khuôn viên ĐBP, tôi đã thấy Quý đôn đốc các con ăn sáng và chuẩn bị trang phục, đồ dùng, sách vở để đi học. Căn nhà dành cho các con nuôi ĐBP được phân chia thành phòng riêng, mỗi phòng có 2 cháu.
Từng cháu đều có giường, chăn màn, bàn ghế học tập đầy đủ. Nhà ở của các cháu trai, cháu gái nằm tách biệt; khu tắm giặt, vệ sinh cũng được phân chia riêng. Hầu hết sinh hoạt của các cháu đều theo nền nếp chế độ quy định của đồn. Bữa ăn của các cháu được tổ chức tập trung tại bếp ăn và theo tiêu chuẩn như cán bộ, chiến sĩ đơn vị.
Ngoài việc anh em trong đồn tự nguyện trích một phần tiền lương, cộng với hỗ trợ của trên để chăm lo ăn mặc, mua sách vở, đồ dùng sinh hoạt cho các cháu, vừa qua, chỉ huy ĐBP Sơn Vĩ còn vận động được một doanh nghiệp hỗ trợ mỗi cháu 500.000 đồng/tháng. Số tiền này được doanh nghiệp chuyển vào tài khoản của từng cháu từ nay đến khi học xong, giúp các cháu sau này có vốn liếng để lập thân, lập nghiệp.
Tâm sự với tôi, Lò Ngọc Quý cho biết: “Do các con đều có những tổn thương về tinh thần, lại xa gia đình, người thân khi còn quá nhỏ nên ban đầu các con rất ngại giao tiếp. Khi mới về, có con không biết sử dụng bàn chải đánh răng, chưa từng dùng khăn rửa mặt, nên mọi sinh hoạt từ nhỏ nhất tôi đều phải hướng dẫn. Thế mà có con còn biểu hiện “chống đối” bằng cách không chia sẻ với bố nuôi, chỉ nói bằng tiếng dân tộc Mông… Sau thời gian vừa động viên, dỗ dành, giảng giải, vừa nghiêm khắc uốn nắn, cuối cùng, các con đã thân thiện, hòa đồng, chấp hành tốt các quy định của đồn, nâng cao ý thức trong sinh hoạt, học tập, tích lũy được những kỹ năng sống cơ bản”.
Xem vở học tập của cháu Hạng Mý Lử, sinh năm 2008 (ở bản Dìn Dàn Xán, mồ côi cả cha lẫn mẹ từ sớm, đang học lớp 7 Trường Phổ thông dân tộc bán trú THCS xã Sơn Vĩ), tôi nhận thấy rất rõ sự tiến bộ qua từng nét chữ. Thượng úy Lò Ngọc Quý phấn khởi khoe: “Từ khi được đồn nhận về nuôi dưỡng (giữa năm 2019), đến nay các con đều học tập tiến bộ hơn. Có con trước là học sinh yếu, giờ đã vươn lên mức khá, được cô giáo biểu dương, khen ngợi, như trường hợp của Lử”.
Được bố Quý khen, Lử gãi đầu, cúi xuống tủm tỉm cười. Thấy vậy, tôi hỏi: “Thế bây giờ Lử còn ghét bố Quý không? Có muốn về nhà chăn trâu nữa không?”. Chẳng cần nghĩ, cậu bé nhanh nhảu: “Không ạ! Ở đây ngày nào con cũng được ăn cơm có thịt, cá, lại được bố Quý hướng dẫn giải toán, làm văn, thích hơn ở nhà nhiều”.
Đứng cạnh Lử, cháu gái Thò Thị Dy cũng góp chuyện: “Ở đây có cơm ngon, chăn ấm. Bố Quý và các bác, các chú lại rất tâm lý, hay cho quà nữa, thích lắm. Nhưng, nếu được đón các em của con xuống đây thì còn vui nữa”. Nói đến đây, Dy trầm giọng, cúi mặt xuống.
Thượng úy Lò Ngọc Quý quay sang tôi nói nhỏ: “Nhà Dy khó khăn lắm, bố mẹ mới ngoài 40 mà đã có 8 con. Nếu không được đón vào đồn nuôi, chưa chắc Dy đã được đi học tiếp. May là con cũng sáng dạ, chịu khó học. Vừa rồi, cấp trên tặng mỗi con một chiếc xe đạp để đi học. Từ hôm nhận xe, Dy phấn khởi lắm, cứ lúc rảnh lại nhờ bố nuôi và các chú giữ xe để tập”.
Đứng cạnh tôi từ lâu, giờ Thiếu tá Nguyễn Đức Oanh, Chính trị viên đồn mới lên tiếng: “Công việc chuyên môn của Đội trưởng Đội Vận động quần chúng rất bận rộn, vì anh Quý thường xuyên phải xuống bản, gặp gỡ, giúp đỡ bà con đồng bào dân tộc. Vậy nhưng khi được giao nhiệm vụ, Quý rất nhiệt tình, trách nhiệm, yêu thương các con như con đẻ của mình. Cứ xong việc chuyên môn, anh lại xuống kèm cặp, hướng dẫn các con học tập, dạy bảo kiến thức, kỹ năng sống. Chúng tôi vẫn gọi vui Thượng úy Lò Ngọc Quý là “ông bố đa di năng”; đúng là “ngọc quý” thật sự”.
Được chỉ huy khen, Thượng úy Lò Ngọc Quý có vẻ ngượng, mặt ửng đỏ. Lát sau, anh mới bộc bạch: “Từ khi nhận chức bố nuôi, tôi phải tự ôn luyện, cập nhật kiến thức để kèm cặp và phối hợp với các thầy, cô giáo dạy bảo thêm các con. Có lần, gặp bài tập khó, tôi phải sang tận trường để nhờ cô Hoàng Thị Sơn, Phó hiệu trưởng Trường Phổ thông dân tộc bán trú THCS xã Sơn Vĩ hướng dẫn cách giải, sau đó về giảng lại cho các con. Dạy kiến thức đã khó, nắm bắt, chăm sóc 2 con gái còn khó hơn nhiều vì đây là thời điểm các cháu biến đổi cả về tâm, sinh lý. Lĩnh vực này tôi phải gọi điện nhờ vợ tư vấn, đồng thời phối hợp, trao đổi với cô giáo trên lớp để hướng dẫn, giúp các cháu những kỹ năng tự chăm sóc, bảo vệ bản thân…”
Cuộc trò chuyện của chúng tôi phải tạm dừng vì các con chuẩn bị đến giờ đi học. Kiểm tra trang phục, đồ dùng học tập của các con xong, Thượng úy Lò Ngọc Quý lại cẩn thận chạy xuống cổng, làm “hoa tiêu” chỉ đường để các con đạp xe từ dốc cổng xuống đường an toàn. Trước khi chào tôi để về phòng làm việc, Quý thông báo: “Giao ban xong, tôi lại xuống bản để thăm nhân dân, nắm tình hình và kiểm tra đàn bò mà đồn tặng bà con. Mình tặng rồi nhưng phải thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc để bò giống phát triển. Mời anh đi cùng tôi nhé!”.
Nhìn bóng Thượng úy Lò Ngọc Quý thoăn thoắt lẫn vào sương mù buổi sớm, nghe tiếng ríu ran của “bố con” chào nhau, tôi thực sự thấy ấm lòng và lại nhớ đến lời tâm sự của “thầy giáo đặc biệt” tại lễ tôn vinh các nhà giáo tiêu biểu do UBND tỉnh Hà Giang tổ chức: “Chúng tôi nhận nuôi các con không phải để chạy theo thành tích, mà thực lòng mong muốn bằng tình yêu thương, nhân ái và sự nền nếp của Bộ đội Cụ Hồ sẽ góp phần nâng đỡ, rèn giũa những trẻ thơ ở hoàn cảnh đặc biệt khó khăn có tương lai tươi sáng, sau này trở thành những cán bộ tốt, công dân ưu tú của địa phương, cùng góp sức bảo vệ và xây dựng biên cương giàu mạnh, phát triển”…
Nghị lực của cô giáo 13 năm cắm bản
Với ước mơ trở thành cô giáo, sau khi tốt nghiệp ngành sư phạm mầm non (Trường đại học Hồng Đức), năm 2008, cô giáo Trần Thị Hồng nộp đơn tình nguyện và được ngành giáo dục phân công giảng dạy tại Trường mầm non Pù Nhi (xã Pù Nhi, huyện Mường Lát, Thanh Hóa).
Sau gần 13 năm liên tục gắn bó tại các điểm trường vùng cao, cô Hồng không chỉ nỗ lực vượt qua khó khăn, vất vả, mà còn vươn lên trở thành nhà giáo tiêu biểu của tỉnh.
Giờ dạy của cô giáo Trần Thị Hồng.
Mường Lát là huyện biên giới, điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn. Cách trung tâm huyện 10 km là xã vùng cao Pù Nhi. Xã có địa hình hiểm trở, núi rừng trùng điệp. Vào mùa mưa, việc đi lại gặp nhiều khó khăn, vất vả. Bằng tấm lòng yêu nghề, mến trẻ, các thầy giáo, cô giáo nơi đây đã nỗ lực vượt qua những khó khăn, có người cống hiến cả tuổi thanh xuân, hết lòng vì sự nghiệp "trồng người".
Cô giáo Trần Thị Hồng cho biết, sau gần 13 năm làm giáo viên, cô đã dạy ở các điểm trường khó khăn như: Cá Nọi, Pù Ngùa, Na Tao, Pha Đén và hiện nay là điểm trường Bản Cơm. Học sinh của trường gồm sáu dân tộc anh em sinh sống: H'Mông, Dao, Thái, Mường, Kinh, K'Mú, nhưng chủ yếu là đồng bào dân tộc H'Mông. Các cháu thuộc nhiều dân tộc khác nhau, bản thân là giáo viên từ dưới xuôi lên dạy, cho nên bất đồng ngôn ngữ, vì vậy cũng gặp không ít khó khăn trong truyền thụ và tiếp thu kiến thức giữa cô và trẻ. Trong khi đó, phần lớn phụ huynh còn chưa thật sự quan tâm đến việc học hành của con em mình; cơ sở vật chất còn thiếu và yếu so với nhu cầu dạy và học hiện tại.
Mặc dù vậy cô Hồng quyết tâm gắn bó với vùng cao Mường Lát. Những ngày đầu đi dạy ở điểm trường không có lương, dân bản trả công cô bằng gạo, bằng lúa. Bản có điều kiện thì đóng nhiều hơn một chút, còn không, từng tháng họ đóng cho trưởng bản, cô giáo đến lấy gạo để ăn. Lần đầu xa gia đình, sinh sống ở môi trường khó khăn, thiếu thốn, không điện, không nước sạch, không có tiền, nhưng vẫn không làm cô nản chí. Mãi đến năm 2010 được ký hợp đồng trở thành viên chức ngành giáo dục, cô mới không nhận gạo lúa của dân bản nữa.
Cô Hồng chia sẻ, kỷ niệm lớn nhất để gắn bó với mảnh đất này là vào đầu năm học 2008 - 2009, khi nhận nhiệm vụ công tác giảng dạy tại điểm trường Pù Ngùa. Khi đó, trong lớp có em Thao Thị Núc, đi học được vài hôm thì nghỉ. Qua tìm hiểu từ người dân trong bản, được biết nhà em Núc rất nghèo, cha, mẹ mất sớm, em và em trai ở với bà nội. Sau vài lần đến nhà Núc vào ban ngày vận động gia đình cho em đến trường nhưng không gặp ai, vì nhà em bận đi làm rẫy, cô Hồng cùng đồng nghiệp tới vào buổi tối. Hôm đó trời mưa to, đường trơn trượt, các cô vừa đi vừa sợ, nhiều lần bị ngã.
Đến nơi, bà của Núc cho biết, em vừa theo bà đi rẫy về. Cạnh bếp củi, Núc mặc bộ quần áo rách, ngồi co ro. Cô nói với bà của em: Mong bà cho cháu Núc đi học lại, tuy em trai của Núc nhỏ chưa đến tuổi đến trường, nhưng có thể cho bé theo Núc đến trường. Tiền mua quần, áo, đồ dùng sách, vở, bút và các đồ dùng học tập khác của Núc cô sẽ hỗ trợ. Ngày hôm sau, bà nội Núc đưa hai chị em đến trường, mang theo một túi dưa và hai quả bí đỏ. Bà đưa cho cô giáo và nói: Bà biếu các cô, cảm ơn các cô nhiều lắm! Tôi cảm thấy trong lòng mình rất vui.
Cô giáo Tống Thị An, Hiệu trưởng Trường mầm non Pù Nhi cho biết, với gần 13 năm công tác tại cơ sở, có chuyên môn vững vàng, cô Hồng đã tạo dựng được uy tín, lòng tin đối với phụ huynh, đồng nghiệp và học sinh trong trường và nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của người dân địa phương.
Là giáo viên, tổ trưởng chuyên môn, cô Hồng luôn đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng lấy trẻ làm trung tâm, tăng cường kỹ năng sống cho các em, ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy. Cô luôn tự học, tự bồi dưỡng, viết sáng kiến kinh nghiệm; tìm hiểu tài liệu dạy học trên mạng, ở đồng nghiệp; ghi chép cẩn thận; thực hành vận dụng có chọn lọc và rút kinh nghiệm.
Hằng năm, lớp do cô Hồng làm chủ nhiệm luôn đạt danh hiệu lớp tiên tiến, tỷ lệ học sinh ra lớp đạt 100%. Với sự tâm huyết, nỗ lực không ngừng, nhiều năm liên tục cô giáo Trần Thị Hồng được ghi nhận là giáo viên giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, được nhận bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa. Đáng chú ý, năm 2020, cô Hồng vinh dự là gương điển hình tiên tiến của ngành giáo dục huyện Mường Lát tham dự hội nghị gương điển hình tiên tiến ngành giáo dục và đào tạo tỉnh Thanh Hóa.
Lan tỏa yêu thương từ mô hình 'Con nuôi vùng biên giới' Thông qua chương trình "Con nuôi Đồn Biên phòng" và nâng bước em tới trường, Bộ đội Biên phòng tỉnh Kon Tum đã nhận nuôi và giúp đỡ cho 75 em nhỏ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nơi khu vực biên giới. Qua đó, tạo điều kiện giúp các em vượt qua những khó khăn, mất mát trong cuộc sống, vươn...