Thắp sáng ước mơ cho học sinh dân tộc
Khó khăn các thầy cô giáo vùng dân tộc thiểu số phải đối diện không chỉ là những cung đường dài gập ghềnh, hiểm trở; đó còn là những phòng học tranh tre nứa lá nơi họ cư ngụ, mưa dột, lạnh thấu xương.
Cô Quàng Thị Thu nhận Bằng khen trong chương trình Chia sẻ cùng thầy cô.
Dành những gì tốt nhất cho các em, thầy cô còn khơi gợi, thắp sáng ước mơ cho trò.
Gian nan đường đến trường
Ra trường năm 2013, cô Quàng Thị Thu ( dân tộc La Ha), được phân công dạy lớp mẫu giáo tại điểm lẻ cách trung tâm xã Mường Bám (huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La) 20km. Đây là điểm trường giáp với tỉnh Điện Biên, không có điện, đường, cũng chẳng có trạm y tế với 100% đồng bào dân tộc Mông sinh sống.
Để đến điểm trường, cô phải vượt qua quãng đường bùn lầy, dốc đá lởm chởm và có nhiều đoạn bị sạt lở. Không những vậy, đoạn cuối, một bên là núi, một bên là vực, nếu đi không cẩn thận sẽ rơi xuống bất cứ lúc nào, nhất là vào mùa mưa gió.
Cuối năm 2018, cô Thu được điều động về công tác tại Trường Mầm non Ánh Hồng, xã Liệp Tè, vùng đặc biệt khó khăn của huyện Thuận Châu. Đây là xã dành cho dân tái định cư của thủy điện Sơn La. Người dân cư ngụ rải rác, địa hình không bằng phẳng. Các điểm trường của Trường Mầm non Ánh Hồng cách xa nhau, đường sá đi lại khó khăn.
Tại đây, cô được ban giám hiệu phân công dạy lớp mẫu giáo ghép 3 độ tuổi. Đây là lớp bán trú dân nuôi với tổng số 40 trẻ, trong đó đa số là trẻ dân tộc La Ha và Thái. Ngoài giờ lên lớp, buổi chiều, cô đến thăm hỏi từng nhà HS để tìm hiểu phong tục tập quán, cuộc sống của người dân nơi đây và bắt đầu học tiếng dân tộc để giao tiếp, gần gũi với trẻ hơn.
“Bằng nỗ lực đem ánh sáng tri thức đến trẻ em dân tộc thiểu số và đặc biệt là đồng bào dân tộc rất ít người La Ha, tôi muốn truyền cho trẻ em nơi đây những hy vọng, sự lạc quan và tinh thần hiếu học để mai sau trở thành người có ích cho cộng đồng, xã hội”, cô Thu tâm sự.
Video đang HOT
Chia sẻ về những khó khăn trong quá trình công tác tại huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, cô giáo Vàng Ha De (dân tộc La Hủ), cho biết: Do nhận thức còn hạn chế, nhiều phụ huynh ở địa phương chưa thật sự quan tâm đến việc học của con em mình. Những năm trước, ngày nào các thầy cô giáo cũng phải đến các bản, vận động từng HS tới trường.
“Lớp học của cô trò chúng tôi dựng bằng ván gỗ, điều kiện vật chất thiếu thốn đủ đường, nhưng tôi và các đồng nghiệp vẫn cố gắng vừa công tác tốt, vừa thay phụ huynh chăm lo cho HS từ việc giặt giũ đến vệ sinh cá nhân. Nhiều lúc, tôi chỉ thầm ước điểm trường được xây dựng kiên cố hơn, có nhà vệ sinh để cô trò bớt khó khăn”, cô giáo Vàng Ha De xúc động nói.
Còn cô Phùng Thị Thủy (dân tộc Thái) bộc bạch: Tôi công tác tại điểm trường Mầm non xã Pa Thơm, điểm trường xa nhất tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. Điểm trường chưa có sóng điện thoại, chưa có điện, cho nên vào dịp cuối tuần, tôi mới đi “dò” sóng để liên lạc được với gia đình.
“Trước đây, điểm trường được phụ huynh HS góp sức trát bùn làm vách đất, mái cũng chỉ lợp lá, ngày mưa GV muốn tới trường phải đi bộ hơn bốn giờ. Đến nay, dù cơ sở vật chất cơ bản được cải thiện, nhưng điểm trường vẫn chưa có điện. Cô trò phải dựa vào nguồn điện năng lượng mặt trời ít ỏi để sinh hoạt mỗi ngày”, cô Thủy cho hay.
Khó khăn không trở thành rào cản
Cô Hoàng Thị Cúc.
Hơn 11 năm gắn bó với Trường Tiểu học Minh Cầm, xã Đội Bình (huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang) là từng đó thời gian cô Nông Thị Tuyến (dân tộc Tày) nỗ lực vượt qua hoàn cảnh riêng để kiên trì, bền bỉ theo đuổi ước mơ, cống hiến hết mình cho sự nghiệp trồng người.
Hoàn cảnh gia đình khó khăn, hai vợ chồng phải làm việc xa, con nhỏ không may mắc bệnh teo thực quản và câm điếc bẩm sinh. Bản thân lại mắc bệnh hiểm nghèo, khó khăn chồng chất khó khăn, có những lúc cô phải xin nghỉ ở trường để điều trị, đi truyền hóa chất… nhưng cô Tuyến luôn tâm niệm “lửa thử vàng gian nan thử sức”, khó khăn không phải để chùn bước, mà là động lực để vượt qua.
Cô giáo Nông Thị Tuyến.
“Đến nay đã hơn 5 năm chiến đấu với căn bệnh ung thư, có những lúc tưởng chừng như kết thúc nhưng hoài bão và nghị lực sống đã giúp tôi vượt qua tất cả. Hiện tôi có thể sống, sinh hoạt như bao người khác, vẫn lên lớp và dạy học bình thường” – cô Tuyến chia sẻ.
Vì HS thân yêu cũng là động lực để cô Hoàng Thị Cúc (dân tộc Tày), GV Trường Phổ thông Dân tộc Nội trú Sơn Động, huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang vượt qua những khó khăn, thử thách của cuộc sống để bám trụ với nghề.
Gia đình chồng cô Cúc thuộc hộ cận nghèo của huyện Sơn Động, hơn nữa sức khỏe chồng lại yếu, không có việc làm, mức lương GV hợp đồng hơn 3 triệu đồng/tháng của cô là nguồn cung chính nuôi cả gia đình. Bởi vậy, cứ sau giờ lên lớp, cô tất bật bán đồ ăn, phụ rửa cốc chén… tới 12 giờ đêm để nuôi sống gia đình. Cô đã nghèo, học trò còn khó hơn, bởi vậy không ít lần đồng lương ít ỏi được cô trích ra để cưu mang học trò, giúp các em có thêm quyển vở, cây bút đến trường.
Cuộc sống khó khăn, hành trình đến trường hằng ngày dài 20km của cô không ít chông gai. “Nhiều lúc muốn bỏ cuộc nhưng việc HS của mình đoạt giải các môn văn hóa, thể dục thể thao, cùng sự sẻ chia của đồng nghiệp đã giúp tôi kiên định với nghề và vượt mọi khó khăn để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao”, cô Cúc chia sẻ.
Người gieo yêu thương, gặt hạnh phúc dưới mái ấm vùng cao
Gắn bó với mái trường PT Vùng Cao Việt Bắc từ năm 1995, sau khi tốt nghiệp sư phạm Sinh trường Đại học Sư phạm, cô giáo Bùi Thị Thu Thủy đã trở về ngôi trường này công tác.
Cô giáo Bùi Thị Thu Thủy trường PT Vùng Cao Việt Bắc
Truyền lửa đam mê
Chia sẻ về những ngày đầu bước chân vào nghề cô tâm sự: Hoàn cảnh gia đình khi đó còn khó khăn, vất vả, công tác tại trường nội trú, chịu nhiều áp lực về thời gian công việc nhưng cô Thủy vẫn luôn lạc quan, vui vẻ, quyết dành trọn thanh xuân của mình với học trò.
Rất may mắn, nhờ sự dẫn dắt của thế hệ đi trước cô Thủy đã tự rèn luyện, trau dồi kiến thức, kỹ năng. Bằng việc thường xuyên ôn luyện cho đội tuyển thi chọn HSG cấp Quốc gia mà từ đó cô có thêm trải nghiệm, kinh nghiệm quý báu trong công tác dạy học cũng như công tác chủ nhiệm.
Học sinh trường nội trú các em đều là người dân tộc đến từ khắp các tỉnh thành trên cả nước, mỗi em lại có một hoàn cảnh và xuất phát điểm khác nhau. Do đó, việc học tập và xây dựng nền tảng đồng bộ thực sự vất vả và đôi khi gặp nhiều khó khăn.
Đối với môn Sinh học nói riêng, không phải bạn nào ngay từ ban đầu cũng dành tình cảm và yêu thích, có những bạn đã từng tâm sự và trao đổi thẳng thắn với cô rằng không hề thích môn học này. Tuy nhiên, không vì thế mà cô Thủy bỏ cuộc. Cô luôn tìm cách để thu hút và truyền năng lượng, khơi dậy niềm say mê học tập cho các bạn. Để rồi từ đó, có rất nhiều bạn đã lựa chọn, yêu thích và thành công với môn học này.
Với thâm niên 25 năm đứng lớp, tham gia ôn luyện cho nhiều thế hệ học sinh đi thi HSG. Trong đó có nhiều em đạt huy chương vàng, huy chương bạc. Tại kỳ thi chọn HSG cấp Quốc gia nhiều học trò của cô đã đạt kết quả và thành tích tốt, trong số đó có nhiều bạn được tuyển thẳng vào các trường đại học danh giá top đầu của cả nước như Đại học Y Hà Nội, Đại học Bách Khoa...
Ngoài ra, cô còn dành thời gian hướng dẫn học trò của mình tham gia đề tài nghiên cứu khoa học lĩnh vực Y sinh - sức khỏe cấp Quốc gia và đạt giải ba năm 2017, giải tư năm 2020. Tham gia hướng dẫn học sinh nghiên cứu đề tài khoa học cấp Quốc gia đạt giải 3 lĩnh vực Hóa học và lĩnh vực Khoa học môi trường...
Khi yêu thương lan tỏa sẽ trở thành năng lượng tích cực
Học trò của cô không chỉ đạt kết quả cao trong học tập, tích cực tham gia các hoạt động thể thao, văn hóa, văn nghệ mà còn phát triển toàn diện về nhân cách, đạo đức. Đoàn kết, chia sẻ và yêu thương, đùm bọc lẫn nhau bởi các em khi được cha mẹ gửi gắm tới đây, trường học không chỉ đơn thuần là nơi dạy học mà là mái nhà, là gia đình của các em. Thầy cô chính là cha mẹ, dành tình yêu thương, quan tâm chăm sóc cho những đứa con thơ của mình.
Cô Thủy với 25 năm trong nghề, làm người đưa đò cho biết bao thế hệ, cô càng hiểu, càng thấm việc giáo dục học sinh bằng tình thương. Vì thế, bên cạnh việc truyền tải kiến thức, cô còn chú trọng đến giáo dục kỹ năng, cảm hóa học trò. Để làm được điều đó, bản thân cô phải là người lan tỏa tình yêu thương , yếu tố tích cực đến mỗi học sinh. Khi sự yêu thương được lan tỏa sẽ trở thành năng lượng tích cực, thay đổi cách nhìn, cách nghĩ của học trò.
Cô đã từng chủ nhiệm rất nhiều khóa, trong đó có cả lớp chọn và lớp thường. Lớp nào cô cũng dành nhiều tình cảm cho học trò của mình để rồi có rất nhiều thế hệ học sinh sau khi ra trường trưởng thành vẫn giữ liên lạc và luôn nhớ về mái ấm vùng cao nơi có cô giáo Thủy - người mẹ thứ hai ở đó.
Nói về bí quyết để truyền cảm hứng, cô Thủy không ngần ngại chia sẻ: khi được phân công bất kì một công việc nào đó, cô phải làm việc một cách nghiêm túc và có tâm. Cô luôn coi học sinh như con của mình, nghiêm khắc nhưng bao dung. Luôn cởi mở, sẵn sàng chia sẻ những khó khăn mà các bạn đang gặp phải. Ai trong chúng ta cũng đã từng mắc những sai lầm, điều quan trọng là chúng ta phạm sai lầm, chúng ta đứng lên từ những sai lầm đó và rồi chúng ta sẽ phát triển tốt hơn.
Em Nông Tuấn Long, lớp A16K60 trường PT Vùng Cao Việt Bắc chia sẻ: trong quá trình dạy học, cô Thủy không chỉ dạy về kiến thức mà cô còn chia sẻ cho chúng em rất nhiều những kinh nghiệm, những bài học trong cuộc sống. Cô dạy cho chúng em từ những thứ nhỏ nhất rất hay và bổ ích, thường xuyên giúp đỡ, động viên đặc biệt là các bạn có hoàn cảnh khó khăn trong lớp.
Gia đình em làm nông rất vất vả, đầu năm lớp 12 bố em mất do bệnh hiểm nghèo, lúc đó em vô cùng suy sụp, vừa lo lắng cho gia đình, cho mẹ em rất nhiều. Cô đã không ngại xa xôi đến với gia đình em ở Ba Bể (Bắc Kạn) để động viên, khi xuống trường cô cùng các bạn chia sẻ với em rất nhiều giúp em vượt qua khó khăn.
Nhờ vậy, em vực dậy tinh thần tiếp tục tham gia kỳ thi HSG quốc gia môn Sinh học, cố gắng ôn luyện em đã đạt giải Nhì được tham dự kỳ thi chọn đội tuyển Olympic quốc tế và được tuyển thẳng vào trường ĐH Y Hà Nội. Không dừng lại, cô tiếp tục xin nhiều suất học bổng để giúp đỡ em phần nào trong quá trình học tập tại đây.
Bằng kiến thức, tình yêu thương trách nhiệm của một nhà giáo cô Thủy đã chắp cánh ước mơ cho nhiều thế hệ học sinh, để họ bay cao, bay xa với ước mơ tươi đẹp của mình. Để rồi hôm nay, điều mà cô luôn nhắc đi nhắc lại, đó là mình đã làm tròn nhiệm vụ của một người giáo viên, một người mẹ sẽ cảm thấy mình thật hạnh phúc khi những đứa con của mình đều đã trưởng thành, trở thành người có ích và góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp hơn.
Điều ước của cô giáo dành cho học sinh vùng khó Tây Nguyên Nhìn những em học sinh ăn không đủ no, mặc không đủ ấm đến lớp, giáo viên ở vùng khó Tây Nguyên chỉ ước các em được đủ đầy hơn. Thầy cô mong các em sẽ vững bước đến trường để thoát khỏi cái đói, nghèo. Hoàn cảnh gia đình cô Nga đặc biệt khó khăn, nhưng khi lên lớp cô luôn mang...