Quy định 9 năm mới được thăng hạng khiến nhiều giáo viên THPT tâm tư
Quy định giáo viên bậc trung học phổ thông phải có thời gian giữ hạng III đủ 9 năm trở lên mới đủ điều kiện thi/xét thăng hạng II, nhiều thầy cô không đồng tình.
Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung các Thông tư số 01,02, 03, 04/2021/TT-BGDĐT quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp không yêu cầu giáo viên tiểu học, trung học cơ sở hạng I phải có bằng thạc sĩ cùng với một số quy định khá hợp lí khiến thầy cô vui mừng.
Thế nhưng, quy định thăng hạng chức danh nghề nghiệp với giáo viên trung học phổ thông hạng III còn bất cập, chưa nhận được sự đồng tình của nhiều thầy cô. Trong phạm vi bài viết này, tôi sẽ phân tích những bất cập đó nhằm góp ý thêm vào dự thảo của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Quy định thi/xét thăng hạng II bậc trung học phổ thông triệt tiêu động lực phấn đấu của giáo viên. (Ảnh minh họa: Lã Tiến)
Giáo viên trung học phổ thông chịu nhiều thiệt thòi với quy định thăng hạng
Ngày 2/2/2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư 04/2021/TT-BGDĐT quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các trường trung học phổ thông công lập.
Theo chùm Thông tư 01, 02, 03, 04/2021/TT-BGDĐT quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông công lập, chỉ có giáo viên trung học cơ sở được tăng lương nhiều nhất trong tất cả giáo viên các cấp.
Riêng giáo viên mầm non, tiểu học chỉ được hưởng mức lương cao nhất của cấp mình nếu thông qua kỳ thi/xét thăng hạng. Còn giáo viên trung học phổ thông về cơ bản là không thay đổi cách xếp lương, bổ nhiệm.
Nhận thấy việc xếp hạng, chuyển lương còn nhiều bất cập, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung các Thông tư số 01, 02, 03, 04/2021/TT-BGDĐT quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương giáo viên mầm non, phổ thông công lập.
Đáng chú ý, dự thảo các Thông tư có nội dung quy định giáo viên bậc trung học phổ thông phải có thời gian giữ hạng III từ 9 năm trở lên mới đủ điều kiện thi/xét thăng hạng II khiến nhiều thầy cô không đồng tình, kể cả tâm tư.
Theo đó, dự thảo sửa đổi điểm i khoản 4 Điều 4 Thông tư 04/2021/TT-BGDĐT quy định về thời gian giữ hạng thấp hơn liền kề như sau:
“i) Giáo viên trung học phổ thông hạng II (mã số V.07.05.14) phải có thời gian giữ chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học phổ thông hạng III (mã số 11 V.07.05.15) hoặc tương đương đủ từ 09 (chín) năm trở lên (không kể thời gian tập sự).”
Chia sẻ với người viết, nhiều giáo viên dạy bậc trung học phổ thông trên cả nước đều có chung ý kiến rằng, đã là thi thăng hạng chức danh thì phải chọn được người có năng lực về chuyên môn, nghiệp vụ, không cần thiết phải quy định tận 9 năm công tác (không kể thời gian tập sự).
Tôi cũng đã trao đổi với một số giáo viên là tổ trưởng, tổ phó chuyên môn nơi đơn vị tôi đang làm việc (Thành phố Hồ Chí Minh) về nội dung này thì thầy cô nói thêm, quy định như thế khác nào triệt tiêu động lực phấn đấu của nhà giáo, thậm chí có người buông xuôi.
Video đang HOT
Bởi, giáo viên trung học phổ thông hạng III, mã số V.07.05.15, được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A1, từ 2,34 – 4,98 với mức lương dao động từ khoảng 3,48 – 7,42 triệu đồng/tháng (chưa tính các khoản phụ cấp) là rất thấp.
Chính vì hệ số lương thấp nên giáo viên mới cần phấn đấu thi/xét thăng hạng từ hạng III lên hạng II để có hệ số lương, mức lương cao hơn.
Cụ thể, giáo viên trung học phổ thông hạng II, mã số V.07.05.14, được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A2, nhóm A2.2, từ 4,0 – 6,38 tương đương mức lương từ khoảng 5,96 – 9,5 triệu đồng/tháng.
Quy định nhiệm vụ, điều kiện thăng hạng còn bất cập
Ngoài ra, việc quy định giáo viên trung học phổ thông hạng III phải có thời gian giữ hạng từ đủ 9 năm trở lên mới đủ điều kiện thăng hạng II khiến nhiều giáo viên trẻ, tâm huyết, giỏi nghề không quan tâm đến những nhiệm vụ của giáo viên hạng II – chỉ cần làm tốt nhiệm vụ của hạng đang giữ (hạng III).
Ví dụ, giáo viên trung học phổ thông hạng III không cần phải làm những nhiệm vụ như sau:
- Làm báo cáo viên hoặc dạy minh họa ở các lớp bồi dưỡng giáo viên từ cấp trường trở lên hoặc dạy thử nghiệm các mô hình, phương pháp, công nghệ mới; chủ trì các nội dung bồi dưỡng và sinh hoạt chuyên đề ở tổ chuyên môn hoặc tham gia xây dựng học liệu điện tử;
- Hướng dẫn hoặc đánh giá các sản phẩm nghiên cứu khoa học và công nghệ từ cấp trường trở lên…
- Hướng dẫn hoặc đánh giá các hội thi hoặc các sản phẩm nghiên cứu khoa học kỹ thuật của học sinh trung học phổ thông từ cấp trường trở lên
Trong khi đó, giáo viên được thăng hạng II chưa chắc đã làm tốt những nhiệm vụ này vì thầy cô phải thuộc gần 20 văn bản luật khi tham gia thi/xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp, còn chuyên môn, nghiệp vụ thì rất mờ nhạt.
Bản thân tôi là giáo viên trung học phổ thông hạng III nhưng năm nào cũng tham gia hướng dẫn học sinh thi khoa học kĩ thuật cấp Thành phố và các em đều đạt giải. Vậy, lâu nay tôi đang làm nhiệm vụ của giáo viên hạng II có trái quy định?
Điều 9 Thông tư 04/2021/TT-BGDĐT còn quy định, “trường hợp giáo viên dự thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học phổ thông hạng II (mã số V.07.05.14) nếu đã có bằng thạc sĩ trước khi tuyển dụng… thì được xác định đủ yêu cầu về thời gian giữ hạng theo quy định tại điểm i khoản 4 Điều 4 Thông tư này”.
Tôi băn khoăn ở chỗ, vì sao giáo viên có trình độ thạc sĩ chỉ cần 6 năm giữ hạng thì đủ điều kiện thi/xét thăng hạng còn cử nhân lên đến 9 năm? Phải chăng, thạc sĩ nào cũng giỏi chuyên môn, nghiệp vụ còn cử nhân mất 3 năm mới đuổi theo kịp?
Qua bài viết này, mong Bộ Giáo dục tiếp tục lắng nghe tiếng nói của giáo viên chúng tôi để chỉnh sửa Thông tư 04/2021/TT-BGDĐT sao cho phù hợp với thực tiễn ở bậc trung học phổ thông. Những bất cập của Thông tư này nếu không được chỉnh sửa một cách hợp lí thì sẽ gây ra nhiều hệ lụy khi triển khai xếp hạng, chuyển lương.
Sửa đổi chùm Thông tư 01-04, nhiều giáo viên vui mừng vì được giữ hạng
Việc quy định nhiệm vụ theo từng hạng là để sau khi giáo viên được bổ nhiệm vào hạng sẽ thực hiện nếu được hiệu trưởng phân công.
Ngày 02/02/2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành chùm Thông tư số 01,02, 03, 04/2021/TT-BGDĐT quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập.
Ngày 20/3/2021, chùm thông tư chính thức có hiệu lực. Nhiều địa phương đã căn cứ quy định để thực hiện việc chuyển đổi hạng cho giáo viên. Đáng nói, quá trình triển khai chùm Thông tư này đã nảy sinh nhiều bất cập. Trong đó, điều gây bức xúc cho nhiều nhà giáo nhất là việc bị xuống hạng một cách không phù hợp.
Ảnh minh họa: Lã Tiến
Bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp phải căn cứ vào vị trí việc làm đang đảm nhận
Chùm Thông tư 01-04, hướng dẫn việc bổ nhiệm và xếp lương theo chức danh nghề nghiệp đều quy định rất rõ:
Việc bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp đối với giáo viên là phải căn cứ vào vị trí việc làm đang đảm nhận và bảo đảm đạt tiêu chuẩn hạng chức danh nghề nghiệp được quy định tại Điều 3, Điều 4, Điều 5 và quy định tại Điều 7 của thông tư.
Vì thế, các địa phương khi xếp hạng giáo viên chỉ xét cho những nhà giáo đang đảm nhận chức danh tổ trưởng chuyên môn.
Điều này đã gây nên nhiều bất công ngay trong đội ngũ nhà giáo khi có những thầy cô giáo gần 20 năm làm tổ trưởng chuyên môn nhưng mới xin nghỉ vẫn sẽ bị xuống hạng vì thiếu nhiệm vụ.
Ngược lại, có những giáo viên mới được bổ nhiệm tổ trưởng một vài năm (thậm chí chỉ 1 năm) đang ở hạng II cũ đã đủ điều kiện chuyển qua hạng II mới.
Điều này dẫn đến, có những giáo viên ở hạng II nhưng năng lực và kỹ năng sư phạm lại thấp hơn đồng nghiệp xếp ở hạng III.
Dự thảo Thông tư sửa đổi đã xóa bỏ bất cập mang đến sự công bằng hơn
Suốt một năm qua, những bất cập trong việc chuyển xếp hạng giáo viên từ chùm các Thông tư 01-04 luôn là đề tài nóng ở các trường học, các diễn đàn giáo dục. Nhà giáo quan tâm nhiều vì liên quan đến quyền lợi chính đáng của họ.
Đã có những trường học, vì việc chuyển xếp hạng theo chùm các Thông tư 01-04 trở thành diễn đàn "đấu tố" nhau, làm mất đoàn kết nội bộ.
Giáo viên tâm tư, lãnh đạo cũng đau đầu khi liên tục nhận được những thắc mắc nhưng không thể giải đáp, không thể giải quyết.
Vì thế, dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp lần này, đã giải quyết được những vấn đề vướng mắc trên, tạo cho giáo viên cũng như các nhà quản lý thêm niềm vui.
Dự thảo Thông tư sửa đổi lần này nêu rõ: các Thông tư 01-04 quy định nhiệm vụ theo từng hạng là để sau khi giáo viên được bổ nhiệm vào hạng sẽ thực hiện nếu được hiệu trưởng phân công.
Làm rõ quy định nhiệm vụ đối với từng hạng chức danh nghề nghiệp: là những công việc giáo viên thực hiện sau khi được bổ nhiệm vào hạng và trong suốt thời gian giữ hạng nếu được hiệu trưởng phân công và hiệu trưởng có thể phân công giáo viên thực hiện nhiệm vụ của hạng cao hơn nếu giáo viên có khả năng.
Khi bổ nhiệm sang hạng tương ứng không yêu cầu giáo viên phải có minh chứng về việc đã thực hiện được nhiệm vụ của hạng.
Giữ quy định nhiệm vụ chung cho tất cả các hạng, trong đó hạng cao quy định thêm một số nhiệm vụ có mức độ phức tạp hơn, yêu cầu giáo viên phải có kinh nghiệm công tác và năng lực cao hơn thì mới thực hiện được như hiện hành.
Bên cạnh đó cần lưu ý, tại Thông tư 01-04, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quy định: Đối với những nhiệm vụ theo hạng chức danh nghề nghiệp mà trường mầm non, phổ thông công lập không được giao hoặc không đủ điều kiện thực hiện thì có thể quy đổi sang các nhiệm vụ khác có liên quan để làm căn cứ đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của giáo viên.
Như vậy, quy định về nhiệm vụ của giáo viên không phải là quy định cứng, bắt buộc đối với tất cả các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và không phải là công việc bắt buộc tất cả các giáo viên phải thực hiện.[1]
Hiệu trưởng nắm vai trò quan trọng trong việc xếp hạng giáo viên
Trước đây, quy định nhiệm vụ từng hạng là căn cứ để xét giáo viên giữ hạng, thăng hạng nhưng Dự thảo Thông tư sửa đổi lần này, đề cao năng lực thật sự của người giáo viên.
Dù không phải là tổ trưởng nhưng giáo viên nào có đủ điều kiện về bằng cấp, chứng chỉ, được đánh giá có đủ năng lực, đủ phẩm chất thì vẫn được xếp giữ hạng hay thăng hạng.
Nghĩa là, những thầy cô giáo được xét giữ hạng, thăng hạng chắc chắn phải có đủ khả năng để đảm đương nhiệm vụ khi được hiệu trưởng phân công. Điều này, chùm Thông tư 01-04 đang bị vướng mắc, các thầy cô giáo phản ứng thời gian qua.
Ngược lại, người có đủ bằng cấp, chứng chỉ, năm công tác nhưng thiếu năng lực, phẩm chất cũng khó có cơ hội thăng hạng. Hiệu trưởng sẽ phải căn cứ vào năng lực, phẩm chất của từng giáo viên mới đề xuất cho dự thi/xét thăng hạng để sau này còn giao nhiệm vụ.
Việc Bộ Giáo dục và Đào tạo ra dự thảo Thông tư sửa đổi chùm Thông tư 01-04 lần này cũng đã giúp cho hàng ngàn nhà giáo từng làm tổ trưởng chuyên môn hoặc có đủ năng lực, phẩm chất được giữ lại hạng II mới (sau khi đã được bổ nhiệm hạng II theo chùm Thông tư 20;21;22; 23/2015/ TT-BGDĐT).
Tài liệu tham khảo:
[1] https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/nhieu-diem-moi-ve-xep-luong-giao-vien-th-thcs-hang-i-khong-can-bang-thac-si-post226603.gd
Cảm ơn Bộ Giáo dục và Đào tạo đã lắng nghe và điều chỉnh loạt Thông tư 01-04 Mong rằng những văn bản do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành gắn với thực tế, nhận được sự đồng thuận của dư luận xã hội, giúp thúc đẩy giáo dục phát triển. Loạt thông tư 01,02,03,04/2021/TT-BGDĐT quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo...