Nữ tiến sĩ trẻ đam mê nghiên cứu khoa học và ước mơ gieo mầm thế hệ trẻ
Sau nhiều năm công tác tại Viện Quy hoạch Thủy lợi – Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Tiến sĩ Trương Vân Anh đã chuyển hướng sang nghề giáo và được bổ nhiệm vị trí Phụ trách Khoa Khí tượng Thủy văn – Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường.
Vừa giảng dạy, vừa nghiên cứu khoa học, cô luôn hy vọng truyền cảm hứng, động lực để lớp trẻ hiểu và say mê theo đuổi con đường nghiên cứu khoa học.
Tiến sĩ Trương Vân Anh – Phụ trách Khoa Khí tượng Thủy văn – Trường Đại học Tài Nguyên và Môi trường
Đam mê nghiên cứu khoa học
TS Trương Vân Anh đã có thời gian theo học tại Trường Đại học Thủy lợi và tốt nghiệp chuyên ngành Thủy văn Môi trường vào năm 2004.
Khi mới ra trường, cô công tác và làm việc tại Viện Quy hoạch Thủy lợi – Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn. Đến năm 2008, cô quyết tâm theo đuổi con đường học tập, nghiên cứu và bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khi vừa tròn 34 tuổi.
Nhớ lại khoảng thời gian hơn 10 năm qua, cô Vân Anh chia sẻ:
“Thực sự rất khó khăn. Có những khoảng thời gian tham gia nghiên cứu, dự án, tôi cứ thế cuốn theo công việc không kể giờ giấc. Khó khăn nhất phải kể đến giai đoạn tôi học lên cao học và sau đó học lên tiến sĩ ở nước ngoài. Con tôi còn nhỏ, phải gửi ông bà chăm sóc nên cứ 4 tháng, tôi lại bay về nước thăm con.
Đến năm học cuối, tôi mang bầu bé thứ 2 và sinh con nơi đất khách quê người ngay trước thời điểm bảo vệ luận án tiến sĩ. Nhìn lại quãng thời gian ấy, tôi thấy mình thật may mắn vì được sự ủng hộ hết lòng từ gia đình để có động lực hoàn thành hết các nhiệm vụ quan trọng trong cùng thời điểm.
Nghiên cứu viên Trương Vân Anh nhận bằng Thạc sĩ. Ảnh: NVCC
Video đang HOT
Với niềm đam mê nghiên cứu khoa học, hằng năm TS Trương Vân Anh đã thực hiện nhiều đề tài khoa học, các bài báo. Trong đó, có khoảng 30 bài báo, kỷ yếu khoa học bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh. Ngoài ra, cô còn là chủ nhiệm, tham gia nghiên cứu các đề tài khoa học cấp Bộ, cấp cơ sở.
“Hiện tại, tôi đang kết hợp với các nhà nghiên cứu ở các trường đại học bên Châu Âu, trong đó có Đại học Bách khoa Milano (Politecnico đi Milano), Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sĩ (ETH Zurich) và Viện công nghệ Karsruhe (IMK -KIT),… thực hiện đề tài nghiên cứu chung về quản lí tổng hợp tài nguyên nước cho lưu vực sông Hồng. Tôi tin rằng, kết quả của sản phẩm sẽ giúp tham vấn cho các nhà quản lí về tài nguyên nước ở Việt Nam.
Mong muốn gieo mầm tri thức
Sinh ra và lớn lên trong gia đình trí thức ở vùng đất Nam Định, thời sinh viên, cô Vân Anh chưa từng nghĩ mình sẽ theo nghề giáo. Tuy nhiên, qua quá trình học tập, nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước, cô đã yêu nghề giáo từ lúc nào không hay. Với cô “mỗi sinh viên là một hạt mầm”, cô muốn đóng góp một phần sức lực và trí tuệ của mình vào quá trình gieo mầm trên nhiều mảnh đất.
“Chuyển từ nghiên cứu viên sang làm giảng viên là quyết định rất khó khăn. Thời gian đầu, tôi không rõ bản thân làm đúng hay sai. Nhưng đến thời điểm hiện tại, tôi hài lòng với quyết định đó.
Đi dạy thích lắm. Làm việc với sinh viên rất thú vị, các em ham học hỏi và năng động. Trong quá trình dạy có những bạn xuất sắc cũng có những bạn cá biệt, nhưng tôi khá kiên trì, tạo kỳ vọng và cùng các em gắn kết. Đến nay, tôi đã giảng dạy được 5 năm và có nhiều khóa sinh viên thành công, cống hiến cho sự phát triển của nước nhà” – cô Vân Anh chia sẻ.
Nữ tiến sĩ trẻ cũng tâm sự, có 1 câu nói của Steven Job: “Stay Hungry, Stay Foolish” (hãy luôn khát khao – hãy luôn dại khờ) mà cô rất tâm đắc và thường xuyên nhắn nhủ tới học trò. Các em có thời gian, có tuổi trẻ, hãy hoài bão, ước mơ và kiên định theo con đường các em đã lựa chọn, thành công sẽ đến với các em.
Và khi đó, cuộc sống không chỉ là “có một công việc để kiếm sống” mà sẽ là “làm việc và cống hiến vì đam mê và hạnh phúc”.
Trong tương lai, TS Trương Vân Anh vẫn tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp giáo dục nước nhà và dành thời gian nghiên cứu về lĩnh vực quản lý tổng hợp tài nguyên nước và quản lý rủi ro thiên tai.
“Tôi đã theo đuổi đam mê của chính mình, vì vậy không có bất cứ lý do nào khiến tôi chùn bước hoặc từ bỏ. Tôi sẽ tiếp tục nỗ lực giảng dạy và nghiên cứu, đặc biệt là lĩnh vực quản lý rủi ro thiên tai. Điều duy nhất tôi trăn trở nhất là làm làm sao để cân đối thời gian cho việc giảng dạy, gia đình và theo đuổi đam mê nghiên cứu.” – cô Vân Anh cho biết.
Những điều còn trăn trở
Say mê nghiên cứu khoa học, nhiệt huyết trong mỗi lần đứng trước giảng đường, TS Trương Vân Anh luôn trăn trở, mong ước có thêm thật nhiều quỹ thời gian để vừa nghiên cứu khoa học, vừa thực hiện tốt công tác giảng dạy, gieo mầm đam mê đến các thế hệ sinh viên và tạo môi trường để các sinh viên phát triển tốt nhất.
“Đối với học trò, tôi luôn trăn trở nhiều hơn để có thể có được môi trường học tập tốt nhất cho các bạn, để có thể trang bị cho các bạn đủ kiến thức, kỹ năng và phẩm chất đáp ứng nhu cầu xã hội và phát triển sự nghiệp của các bạn ấy sau này. Trăn trở để tìm kiếm những cơ hội việc làm giúp các bạn ấy khi ra trường. Mặc dù ít sinh viên, nhưng mỗi sinh viên đều là những đứa con khoa học của các thầy cô Khoa KTTV.
Để sau này, tôi sẽ có thật nhiều đồng nghiệp tương lai giỏi giang, thành đạt để cùng giải quyết những thách thức của ngành khí tượng thuỷ văn: Cùng nhau dự báo, cùng nhau phòng chống thiên tai, cùng nhau phát triển các đô thị xanh sạch đẹp… những thách thức gắn với ngành trong quá trình phát triển đất nước” – nữ tiến sĩ bày tỏ.
Hậu tiến sĩ bị "lãng quên"
Không quá đáng khi nói học xong tiến sĩ mới chỉ là học một nghề cao cấp để sau này dấn thân vào "nghề" nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp.
Gần đây giới đại học thảo luận sôi nổi về quy chế đào tạo tiến sĩ mà Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa ban hành. Trong một đất nước trải qua các mô hình đại học khác nhau trong một khoảng thời gian không dài, việc các quy chế liên quan đến giáo dục đại học phải điều chỉnh liên tục cũng là bình thường. Tuy nhiên, những thay đổi về giáo dục đại học đều cần phải nhằm mục đích tiếp cận rồi hội nhập với nền giáo dục quốc tế.
Trong bài viết hôm nay tôi có một số ý kiến về vấn đề tiến sĩ, nhưng ở giai đoạn sau khi có bằng tiến sĩ, đó là hậu tiến sĩ.
Ở Việt Nam, giai đoạn hậu tiến sĩ thường không được đề cập trong các quy chế, nghĩa là không có giai đoạn hậu tiến sĩ.
Hậu tiến sĩ có hai quá trình riêng biệt. Hậu tiến sĩ (post-doctorate) thường để chỉ giai đoạn nghiên cứu sau khi có tiến sĩ, chuẩn bị cho quá trình tuyển dụng để trở thành giảng viên đại học, giai đoạn này thường kéo dài khoảng một năm. Quá trình hậu tiến sĩ này nhằm giúp người học vừa tốt nghiệp tiến sĩ làm nghiên cứu ở một trường đại học để lấy kinh nghiệm và để "xin việc". Bài viết này tôi không đề cập đến giai đoạn này.
Ảnh minh họa: nguồn Báo Vietnamnet
Có một hình thái hậu tiến sĩ thứ hai, tôi tự đặt ra để dễ xác định vì quá trình hậu tiến sĩ này cũng diễn ra sau khi học xong tiến sĩ và đi làm một số năm ở một trường đại học.
Bỏ qua những yếu tố về tính hội nhập quốc tế thì Quy chế đào tạo tiến sĩ của Việt Nam dường như tạo cho người đỗ cảm giác là sau khi đạt bằng tiến sĩ cũng là đạt đến đỉnh cao của kiến thức . Điều này là một ngộ nhận.
Theo sự hiểu biết của tôi có bằng tiến sĩ mới chỉ là bước đầu trên con đường khoa học của mình. Khi chuẩn bị tiến sĩ, nói nôm na đó cũng là giai đoạn "học nghề" nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu sinh phải tìm hiểu trong quá khứ đã có những công trình nào viết về đề tài của mình, và rồi phải đọc hiểu những công trình này. Nếu là khoa học thực nghiệm phải biết xây dựng dụng cụ, máy móc thí nghiệm để đo đạc. Có kết quả phải biết tập hợp, đánh giá, trình bày, chuẩn bị bài đăng trong tạp chí, viết luận văn...Còn phải biết làm việc với người hướng dẫn, đồng nghiệp, bạn bè.
Nghiên cứu sinh trải qua rất nhiều công đoạn, mà nhiều công đoạn này lần đầu tiên nghiên cứu sinh mới làm quen. Bởi vậy không quá đáng khi nói học xong tiến sĩ mới chỉ là học một nghề cao cấp để sau này dấn thân vào "nghề" nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp.
Nếu coi tiến sĩ mới tốt nghiệp chỉ là người bắt đầu nghiên cứu khoa học, trường đại học, viện nghiên cứu mong muốn họ bắt đầu làm công việc của nghiên cứu sinh càng trẻ càng tốt, hoàn thành tiến sĩ càng sớm càng tốt. Đó cũng là lý do tại sao chỉ chọn nghiên cứu sinh ưu tú. Phần lớn nghiên cứu sinh được học bổng, nhưng học bổng thường chỉ cho trong 3 năm (thời gian tối thiểu để hoàn thành), cùng lắm gia hạn thêm nửa năm, nghĩa là phải làm việc toàn thời gian, điều này cũng không ngoài mục đích là ép nghiên cứu sinh phải hoàn thành tiến sĩ trong thời hạn ngắn nhất. Đó là giai đoạn không nhàn chút nào. Chuyện nghiên cứu sinh tốt nghiệp tiến sĩ khi mới 21, 22 tuổi cũng không ít. Các trường đại học rất không muốn nghiên cứu sinh hoàn tất tiến sĩ khi tuổi đã lớn vì đơn giản tiềm năng nghiên cứu khoa học hậu tiến sĩ sẽ giảm một khi lớn tuổi.
Trong một nền giáo giáo đại học phát triển, trường đại học khi thu nhận tiến sĩ mới tốt nghiệp thường chỉ coi như là tạm tuyển. Muốn được tuyển làm giảng viên chính thức (gọi là tenure) phải có một số công trình công bố ở các tạp chí quốc tế. Như vậy đây là mẻ lưới thứ hai để sàng lọc chất lượng tiến sĩ.
Bằng tiến sĩ không được coi là đích cuối cùng đối với những tiến sĩ làm nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu. Ngày xưa các trường đại học cũng không có chế độ tenure, dẫn đến tình trạng sống lâu lên lão làng. Sau này phải đưa vào chế độ tenure để ràng buộc tiến sĩ phải nghiên cứu khoa học. Đại học Việt Nam nên học tập chế độ tenure.
Có lẽ chế độ tenure không mặn mà ở Việt Nam vì tuyển được một tiến sĩ là may lắm rồi, còn đòi hỏi thêm làm gì. Nếu đây là lý do chính đáng e rằng nó sẽ dẫn đến những hậu quả tai hại.
Trước hết chuyện học tiến sĩ trở thành như chuyện "cá vượt vũ môn", nghiên cứu sinh muốn tốt nghiệp tiến sĩ bằng mọi giá, kể cả những biện pháp dưới chuẩn, tiêu cực, họ chỉ muốn hóa rồng, nhưng sau đó trở thành rồng đất cũng không sao vì bằng tiến sĩ đối với họ là cứu cánh, không phải là bắt đầu con đường khoa học, nếu không có chế độ tenure.
Trường đại học cũng chẳng cần tenure vì không quan tâm đến nghiên cứu khoa học. Suy nghĩ này về lâu dài sẽ ảnh hưởng xấu đến phát triển giáo dục và nghiên cứu. Các trường phải có những quy định sau một năm, hai năm...những tiến sĩ được tuyển dụng sẽ có những công trình được xuất bản, nếu không sẽ bị cắt hợp đồng, không lên lương, không thăng chức.
Có như vậy mới duy trì được tiềm năng của các tiến sĩ trẻ, duy trì ngay từ đầu thói quen nghiên cứu khoa học. Biện pháp có vẻ mạnh, về lâu dài trường sẽ gặt hái được thành quả và nền giáo dục Việt Nam mới phát triển.
Khi ràng buộc tiến sĩ và hậu tiến sĩ thành một thể thống nhất, ít nhất có thể làm nản lòng những người muốn học tiến sĩ, tốt nghiệp tiến sĩ chỉ vì coi bằng tiến sĩ là cứu cánh, giảm bớt những tranh cãi không cần thiết về quy chế tiến sĩ.
Đến đây tôi lại nghĩ đến mong đợi của các tiến sĩ trở thành phó giáo sư, giáo sư trong điều kiện hiện nay. Thời gian chờ đợi để trở thành phó giáo sư, giáo sư mất cả chục năm sau biết bao cố gắng nghiên cứu khoa học.
Tại sao không để các trường tự chủ việc phong các chức danh giảng dạy đến giáo sư cho các trường như nhiều nước vẫn làm. Khi các trường này thực hiện trọng trách này chắc chắn họ sẽ tạo ra các ngưỡng cụ thể cho các tiến sĩ phải vượt qua để lên bậc giảng dạy cao hơn. Khi tự chịu trách nhiệm thì họ sẽ tổ chức xét duyệt nghiêm túc hơn, có thể chưa bảo đảm loại bỏ hết tiêu cực.
Nhưng cũng không sao, ngay cả ở Mỹ, Úc, một giáo sư ở một trường chưa chắc đã được bổ nhiệm ở một trường khác: giáo sư là giáo sư của một trường cụ thể. Việt Nam bắt đầu thí điểm việc trường tự phong giáo sư ở những trường có uy tín như Đại học Quốc gia. Chuyện phong giáo sư cả chục năm nay vẫn chưa xong thì bắt đầu xem xét tự chủ đại học trong đó có nội dung tự phong giáo sư cũng không phải là muộn.
Tiến sĩ trẻ nhất đoạt giải Quả Cầu Vàng đến từ Đại học Tôn Đức Thắng Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Chinh đến từ Trường Đại học Tôn Đức Thắng đã trở thành người trẻ tuổi nhất đoạt giải thưởng Quả Cầu Vàng. Cuối năm 2020, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Bộ Khoa học, Công nghệ đã công bố, trao giải thưởng Quả Cầu Vàng năm 2020. Tiến sĩ 30 tuổi có 38 bài...