COVID-19 có thể thúc đẩy sự lây lan của “siêu nấm” kháng thuốc
Brazil đã báo cáo những trường hợp đầu tiên bị nhiễm một loại nấm gây chết người với tên gọi Candida auris (C. auris) và đang ngày càng trở nên kháng thuốc chống nấm.
Quốc gia này đã cảnh giác cao độ về bệnh nấm này kể từ năm 2016, khi đợt bùng phát đầu tiên ở châu Mỹ được báo cáo tại Venezuela.
Ngay sau đó, các đợt bùng phát diễn ra ở Colombia, Panama, Chile và Hoa Kỳ, nhưng không có trường hợp nào ở Brazil cho đến tháng 12 năm 2020, ngay sau khi làn sóng COVID-19 thứ hai bắt đầu ở nước này.
Các nhà nghiên cứu dẫn đầu bởi Tiến sĩ, bác sĩ Arnaldo Colombo tại São Paulo đã phân tích các mẫu bệnh phẩm từ hai trường hợp đầu tiên. Cả hai xảy ra trong phòng chăm sóc đặc biệt COVID-19 của một bệnh viện ở Salvador, đông bắc Brazil.
Bệnh viện đã báo cáo thêm 9 trường hợp nhiễm trùng hoặc xâm lấn không triệu chứng bởi loại nấm này.
Vào tháng 3 năm 2021, Tiến sĩ Colombo và các đồng nghiệp của ông đã báo cáo rằng loài nấm này vẫn rất nhạy cảm với các loại thuốc chống nấm.
Tuy nhiên, kể từ đó, họ phát hiện thấy sự kháng thuốc của C. auris đối với fluconazole và một nhóm thuốc chống nấm có tên là echinocandins trong các mẫu bệnh phẩm đã gia tăng mạnh.
Tiến sĩ Colombo cho biết: “Các ca C. auris ở Salvador gần đây cần dùng liều lượng thuốc lớn hơn gấp 4 đến 5 lần so với liều được sử dụng để vô hiệu hóa chủng nấm được nuôi cấy vào tháng 12 năm 2020″.
Không có trường hợp nào khác được báo cáo ở Brazil, nhưng Tiến sĩ Colombo tin rằng họ có cơ sở để lo lắng. Ông nói: “Loại nấm này nhanh chóng trở nên kháng nhiều loại thuốc và không nhạy cảm với các chất khử trùng được các bệnh viện và phòng khám sử dụng. Kết quả là, nó có thể tồn tại trong các bệnh viện, nơi nó xâm nhập vào cơ thể nhân viên y tế và lây nhiễm cho những bệnh nhân mắc COVID-19 nặng và những bệnh nhân nguy kịch khác nằm viện lâu”.
Tỷ lệ tử vong cao
CDC báo cáo rằng C. auris có thể gây nhiễm trùng máu, vết thương, và tai. Ước tính khoảng 30-60% người nhiễm C. auris tử vong, mặc dù nhiều bệnh nhân trong số này cũng mắc các bệnh đe dọa tính mạng khác. Nghiên cứu của Tiến sĩ Colombo tuyên bố rằng bội nhiễm C. auris ở những bệnh nhân bị bệnh nặng với COVID-19 được ước tính có tỷ lệ tử vong trong 30 ngày là trên 50%.
CDC cho biết trước đây, các ca nhiễm C. auris chủ yếu được phát hiện ở các cơ sở chăm sóc dài hạn dành cho những người bị bệnh nặng. Tuy nhiên, kể từ khi bắt đầu đại dịch, các đợt bùng phát đã xảy ra ở các buồng bệnh COVID-19 của các bệnh viện.
Video đang HOT
Tiến sĩ Meghan Marie Lyman từ CDC cho biết: Trong đại dịch COVID-19, số ca nhiễm C. auris đã gia tăng, đặc biệt là ở một số khu vực của Hoa Kỳ trước đây không có nhiều ca bệnh”.
Hình ảnh nấm C. auris .
Điều kiện lý tưởng cho sự lây lan
Đại dịch đã tạo điều kiện lý tưởng cho các bệnh nhiễm trùng do nấm như C. auris và mucormycosis ở Ấn Độ lây lan trong các bệnh viện.
Thuốc dexamethasone (steroid) mà bác sĩ sử dụng để điều trị cho những bệnh nhân bị bệnh nặng ngăn chặn khả năng miễn dịch đối với các bệnh nhiễm trùng khác. Ngoài ra, thuốc kháng sinh phổ rộng tiêu diệt vi khuẩn sống trong ruột và trên da. Các vi khuẩn này thường cạnh tranh với nấm để giành không gian sống. Ống thông có thể cho phép C. auris xâm nhập vào máu và đường tiết niệu. Cũng có bằng chứng cho thấy virus làm hỏng lớp niêm mạc của ruột, cung cấp cho nấm một điểm xâm nhập khác vào máu.
Tiến sĩ Lyman cho biết, các đợt bùng phát có thể liên quan đến những thay đổi trong thực hành kiểm soát nhiễm trùng trong đại dịch, bao gồm việc thiếu găng tay và áo choàng, hoặc việc tái sử dụng những vật dụng này, cũng như những thay đổi trong thực hành vệ sinh và khử trùng.
Một báo cáo của CDC về một đợt bùng phát ở Florida vào tháng 7 năm 2020 chỉ ra việc sử dụng nhiều lớp thiết bị bảo vệ cá nhân có thể góp phần làm lây lan nấm.
Tiến sĩ Lyman cho biết: Cũng có những trường hợp nhiễm C. auris mới không có liên quan đến các trường hợp đã biết, cho thấy sự gia tăng của các ca lây truyền không được phát hiện. Việc tầm soát định kỳ để tìm C. auris ở bệnh nhân tại các cơ sở y tế đã bị hạn chế vì các nguồn lực đã được chuyển hướng để đáp ứng với COVID-19.
Kể từ năm 2009 khi C. auris lần đầu tiên được xác định ở Nhật Bản, các ca nhiễm nấm đã được báo cáo ở hơn 30 quốc gia. Tuy nhiên, vì cần có thiết bị phòng thí nghiệm chuyên dụng để phân biệt loài này với các bệnh nhiễm nấm Candida khác, C. auris có khả năng lây lan rộng hơn.
Hầu hết các trường hợp nhiễm nấm vẫn nhạy cảm với echinocandin, nhưng một số chủng nấm đã phát triển khả năng đề kháng với cả ba nhóm thuốc chống nấm chính.
Tiến sĩ Lyman cho biết: các báo cáo về các trường hợp C. auris kháng echinocandin ở Hoa Kỳ đang gia tăng, điều này rất đáng lo ngại vì các lựa chọn điều trị kháng nấm cho những bệnh nhiễm nấm kháng thuốc là rất hạn chế.
Để hóa trị ung thư không còn là may rủi: Xét nghiệm máu này chỉ mất 24 giờ để dự đoán sự hiệu quả của thuốc đích
Các bệnh nhân sẽ được hưởng lợi trong vòng 3 năm nữa.
Đối mặt với một chẩn đoán ung thư bản thân nó đã là một việc hết sức khó khăn. Nhưng các bệnh nhân ung thư sau đó còn phải đưa ra một quyết định thậm chí còn khó khăn hơn nữa: Điều trị hay không điều trị, và nếu điều trị thì dùng phương pháp nào và ở mức nào?
Chính các bác sĩ nhiều khi cũng không thể tự tin quyết định điều đó. Chẳng hạn như với một bệnh nhân cần hóa trị với thuốc đích (thuốc nhắm mục tiêu vào tế bào ung thư), quyết định điều trị có phần giống như tung một đồng xu sấp ngửa.
Nếu đồng xu ngửa, bệnh nhân sẽ may mắn đáp ứng với thuốc và khối u sẽ thu nhỏ lại, đồng thời các tổ chức di căn cũng sẽ biến mất. Nhưng nếu đồng xu sấp, khối u sẽ kháng thuốc còn di căn thì vẫn còn đó. Bệnh nhân không những không được hưởng lợi từ thuốc đích, mà còn mất rất nhiều tiền và phải chịu đựng những tác dụng phụ khủng khiếp mà nó gây ra.
Điều đáng nói là giống như đồng xu một khi đã tung lên, bạn không thể rút nó lại. Bệnh nhân ung thư lựa chọn hóa trị thường sẽ phải hóa trị đủ liều. Khi kết thúc toàn bộ phác đồ, họ sẽ phải đợi một vài tuần nữa để chụp cộng hưởng từ, hoặc xạ hình để xem khối u đã thu nhỏ lại hay chưa, các tổ chức di căn có biến mất hay không?
Vấn đề đặt ra bây giờ là: Nếu chúng ta có thể biết trước đồng xu sẽ sấp hay ngửa, ngay khi mới tung nó lên thì sao?
Một xét nghiệm máu có thể loại bỏ tính may rủi của hóa trị ung thư
Trong một nghiên cứu mới của mình, các nhà khoa học Singapore cho biết họ đã phát triển thành công một xét nghiệm máu đơn giản có thể nói cho bác sĩ ung thư biết thuốc đích của họ có hiệu quả với bệnh nhân hay không.
Kết quả sẽ trả về chỉ sau 24 giờ kể từ liều hóa trị đầu tiên. Và sau đó, các bác sĩ có thể điều chỉnh phác đồ của họ hiệu quả hơn, hoặc ngược lại sẽ dừng điều trị để giúp bệnh nhân không phải chịu tác dụng phụ của thuốc một cách vô ích.
Phương pháp xét nghiệm máu mới được gọi là ExoSCOPE, viết tắt của "g iám sát những phân tử hóa chất nhỏ chiếm giữ túi ngoại bào và biểu hiện protein".
Túi ngoại bào là những hạt nhỏ do tế bào tiết ra, thường mang theo các chất độc mà tế bào muốn đào thải. Giống như tế bào thường, các tế bào ung thư cũng có túi ngoại bào và sẽ dùng nó để đào thải các chất độc muốn giết chết chúng - trong trường hợp này chính là thuốc đích dùng trong hóa trị.
Nếu các nhà khoa học tìm thấy các phân tử thuốc trong túi ngoại bào của tế bào ung thư, chứng tỏ, thuốc đích đã tấn công được vào bên trong chúng và được tính là có hiệu quả. Ngược lại, nếu tế bào ung thư không có dấu hiệu bị nhiễm thuốc đích, điều trị hóa trị này được đánh giá là kháng thuốc và sẽ không có tác dụng.
Nhà vật lý sinh học Shao Huilin đến từ Đại học Quốc gia Singapore (NUS) cho biết: Các thủ thuật thăm dò khối u để đánh giá hiệu quả sau điều trị ung thư hiện nay không chỉ tốn kém mà còn rất chậm trễ. Bạn phải đợi ít nhất một vài tuần mới có thể đánh giá hiệu quả điều trị.
Thế nhưng bây giờ, " sử dụng ExoSCOPE, chúng tôi đã có thể đo lường trực tiếp kết quả đáp ứng thuốc trong vòng 24 giờ kể từ khi khi bắt đầu. Điều này sẽ giảm đáng kể thời gian và chi phí trong quá trình theo dõi điều trị ung thư ", Huilin cho biết thêm.
Trong một thử nghiệm lâm sàng với 106 bệnh nhân ung thư phổi, ExoSCOPE đã đạt được tỷ lệ dự đoán chính xác tới 95% khi so sánh với tiêu chuẩn vàng hiện tại về đo lường khối u. Nhưng tất nhiên, nó đã cho kết quả nhanh hơn nhiều.
Các bệnh nhân sẽ được hưởng lợi trong vòng 3 năm nữa
Để có thể tìm được những túi ngoại bào có đường kính nhỏ hơn hàng trăm lần so với độ dày của một sợi tóc người, Huilin và các đồng nghiệp đã phải phát triển một công nghệ cảm biến đặc biệt với hàng triệu dây nano vàng.
Thông thường, túi ngoại bào sẽ vô hình dưới kính hiển vi tiêu chuẩn, nhưng các sợi dây nano vàng có thể khuếch đại tín hiệu thuốc mà chúng phát ra. Một bác sĩ sau đó có thể thu thập mẫu máu của bệnh nhân ung thư sau điều trị và phân tích phổ ánh sáng mà nó hấp thụ để biết liệu thuốc đích đã tấn công được tế bào bệnh hay chưa?
Thậm chí, ExoSCOPE còn cho phép họ theo dõi động lực của thuốc theo thời gian, kiểm tra xem các phương pháp điều trị đang hoạt động như thế nào hoặc chúng có gặp phải tình trạng kháng thuốc hay không. Phương pháp xét nghiệm đột phá này sẽ cung cấp cho các chuyên gia y tế một bức tranh toàn cảnh ngay trong một khoảng cửa sổ điều trị rất ngắn.
" Bạn chỉ cần một mẫu máu nhỏ để phân tích và mỗi lần xét nghiệm chỉ mất chưa đầy một giờ để hoàn thành. Vì vậy, nó ít xâm lấn hơn mà lại cho biết nhiều thông tin hơn ", Huilin nói. " Bằng cách này, các bác sĩ có thể theo dõi sự đáp ứng của bệnh nhân với điều trị một cách thường xuyên, trong suốt quá trình điều trị và kịp thời điều chỉnh để có được kết quả điều trị tốt hơn".
Phó giáo sư Shao Huilin đến từ Đại học Quốc gia Singapore (NUS) và con chip xét nghiệm máu ExoSCOPE.
Nghiên cứu mới của các nhà khoa học Singapore cho thấy trong cuộc chiến với ung thư, việc tìm ra một phương án điều trị đã rất quan trọng, nhưng đánh giá hiệu quả của phương án đó một cách kịp thời cũng là điều hết sức cần thiết.
Với những xét nghiệm máu đơn giản như ExoSCOPE, bây giờ, việc lựa chọn một loại thuốc đích cho bệnh nhân ung thư sẽ không còn là thứ gì đó may rủi trong nhiều tuần lễ. Cả bác sĩ và bệnh nhân có thể biết thuốc có đang tỏ ra hiệu quả với khối u hay không chỉ sau khoảng thời gian tính bằng tiếng đồng hồ.
Huilin và đồng nghiệp cho biết họ đang muốn mở rộng phạm vi nghiên cứu của mình sang nhiều loại bệnh hơn và không chỉ có ung thư. Nhưng trước mắt, nhóm nghiên cứu sẽ tập trung hoàn thiện xét nghiệm ExoSCOPE để có thể thương mại hóa nó trong vòng 3 năm tới. Các bệnh nhân ung thư sau đó sẽ sớm được hưởng lợi.
Nghiên cứu mới này đã được công bố trên tạp chí Nature Nanotechnology.
Luyện tâm, luyện thể giữ cân bằng giữa đại dịch COVID-19 gây cho đời sống của tất cả chúng ta ít nhiều sự xáo trộn trong công việc, học tập, lao đông, sinh hoạt, kế hoạch dự định...là nguyên nhân của nhiều mối căng thẳng cho các thành phần trong xã hội. Đã có nhiều lời khuyên dưới nhiều góc độ khác nhau từ các chuyên gia để giúp cải thiện sự căng...