Bệnh n.hiễm t.rùng uốn ván có nguy hiểm, có chữa được không?
N.hiễm t.rùng uốn ván được xem là một loại bệnh lây nhiễm cực kỳ nguy hiểm, người mắc phải bệnh này có nguy cơ t.ử v.ong rất cao nếu không được điều trị kịp thời và đúng cách.
Vi khuẩn gây bệnh uốn ván.
Bị mảnh gỗ đ.âm vào ngón tay phải và tự xử lý bằng nước và băng keo cá nhân, dẫn đến vết thương mưng mủ, bệnh nhân H., 65 t.uổi, ở Bắc Ninh, đi khám tại cơ sở y tế trong tình trạng khó há miệng, cứng hàm sau đó được giới thiệu lên Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương vì nghi mắc uốn ván.
Bệnh nhân nhập viện trong tình trạng uốn ván toàn thể rõ rệt với biểu hiện cụ thể: cứng hàm, miệng há 1cm, tăng trương lực cơ toàn thân mức độ nặng (co cứng cơ toàn thân), có khởi phát cơn co giật và chẹn ngực gây khó thở (dấu hiệu của tổn thương cơ hô hấp).
Đây là 1 trong 10 trường hợp bệnh nhân mắc bệnh uốn ván trong tình trạng nặng được điều trị tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương mới đây.
Đặc điểm chung của những bệnh nhân này là chưa tiêm phòng uốn ván và đều bị các vết thương hở nhưng tự xử lý tại nhà không triệt để, dẫn đến nhiễm vi khuẩn uốn ván. Khi có biểu hiện cứng hàm, bệnh nhân mới nhập viện điều trị.
Theo các chuyên gia y tế, n.hiễm t.rùng uốn ván được xem là một loại bệnh lây nhiễm cực kỳ nguy hiểm. Người mắc phải bệnh này có nguy cơ t.ử v.ong rất cao nếu không được điều trị kịp thời và đúng cách.
Bệnh uốn ván là gì?
Bệnh uốn ván là bệnh được gây ra bởi ngoại độc tố của một loại trực khuẩn có tên gọi là Clostridium tetani. Loại Vi khuẩn này thường sống và phát triển trong bùn đất, phân động vật, môi trường mang tính chất yếm khí.
Bệnh này không thể lây nhiễm từ người sang người. Tuy nhiên, chúng lại rất dễ lây nhiễm khi vết thương hở tiếp xúc trực tiếp tại những môi trường có vi khuẩn uốn ván tồn tại.
Ví dụ như khi bạn giẫm phải đinh rỉ sét, động vật cắn bị thương hoặc cơ thể bị thương nhưng vẫn thường xuyên phải tiếp xúc với các môi trường có chứa đất bùn, phân động vật thì sẽ có nguy cơ rất lớn bị nhiễm vi trùng uốn ván. Trong một số trường hợp khi phẫu thuật xong hay nạo phá thai trong điều kiện không đảm bảo vệ sinh cũng có khả năng cao bị nhiễm bệnh.
Đối tượng thường bị nhiễm bệnh
Bệnh uốn ván mang tính chất dễ bị nhiễm rất cao. Chính vì vậy, mọi người không phân biệt giới tính hay độ t.uổi đều có nguy cơ mắc phải bệnh.
Đối với người lớn, tỷ lệ nam ở độ t.uổi trung niên thường có nguy cơ mắc bệnh cao hơn so với những độ t.uổi khác. Bởi những người ở độ t.uổi này thường rất ít được tiêm vaccine phòng bệnh ngay từ ban đầu.
Đối với t.rẻ e.m vừa sinh ra cũng có nguy cơ mắc bệnh. Trong những trường hợp này, người ta gọi là uốn ván sơ sinh.
Video đang HOT
Thời gian ủ bệnh
Thời gian ủ bệnh khi bị nhiễm vi trùng uốn ván có thể rơi vào khoảng từ 3 ngày đến 21 ngày. Sở dĩ có sự khác nhau này là vì còn phụ thuộc vào kích thước vết thương, vị trí bị thương cũng như tình trạng sức khỏe của người mắc bệnh.
Đối với những vết thương nhẹ thì thời gian ủ bệnh lâu hơn. Ngược lại, bệnh nặng hơn thì thời gian ủ bệnh sẽ nhanh hơn.
Các biểu hiện khi bị nhiễm vi trùng uốn ván
Khi không may mắc phải căn bệnh này, sau thời gian ủ bệnh cơ thể sẽ bắt đầu xuất hiện các triệu chứng. Thông thường, bệnh sẽ phát triển theo từng giai đoạn. Mỗi giai đoạn cơ thể sẽ bộc lộ những triệu chứng khác nhau từ nhẹ cho tới nặng dần. Nếu người bệnh không phát hiện kịp thời và có phương hướng điều trị hiệu quả sẽ rất dễ dẫn đến những tổn thương nghiêm trọng. Thậm chí là có thể nguy hiểm đến tính mạng.
Bác sỹ theo dõi sức khỏe cho một bệnh nhân mắc uốn ván trong tình trạng nặng. (Ảnh: PV/Vietnam )
Trước hết, sau khoảng 5 ngày mắc bệnh, cơ thể sẽ xuất hiện triệu chứng sốt nhẹ, người mệt mỏi và chán ăn. Tiếp đến, một số cơ ở các bộ phận như hàm, cổ và lưng sẽ bị cứng lại, rất khó để hoạt động. Điều này không chỉ khiến bạn cảm thấy đ.au đ.ớn cơ thể mà phần đầu cũng sẽ bị ảnh hưởng theo.
Khi cơ thể bị sốt sẽ rất dễ ra mồ hôi và mất nước. Sau đó là tình trạng tiểu tiện hay đại tiện thường xuyên, mất kiểm soát. Giai đoạn cuối của bệnh, cơ thể người nhiễm sẽ ngày càng mệt mỏi, khó thở thậm chí là nghẹt thở dẫn tới suy hô hấp nặng.
Nếu đến lúc này bệnh nhân vẫn không được điều trị thì sẽ dẫn đến tình trạng khóa hàm. Đặc biệt, khi bị nhiễm bệnh, phần xương của người bệnh rất giòn và yếu. Chính vì vậy, chỉ cần một va chạm nhẹ cũng rất dễ khiến bệnh nhân bị gãy xương.
Phương thức điều trị khi nhiễm bệnh
Bệnh uốn ván tuy là một căn bệnh nguy hiểm, khó điều trị tuy nhiên không phải là không thể chữa khỏi. Tùy thuộc vào từng mức độ nhiễm bệnh của người mắc mà các bác sỹ sẽ đưa ra phác đồ điều trị phù hợp.
Giải pháp hữu hiệu nhất để phòng bệnh uốn ván đó chính là tiêm vaccine uốn ván. (Ảnh: Minh Quyết/TTXVN)
Thời gian điều trị bệnh dứt điểm sẽ cần một khoảng thời gian khá dài. Chính vì vậy, bệnh nhân cần có sự kiên nhẫn cũng như nghỉ ngơi hợp lý để đạt được kết quả điều trị tốt nhất.
Khi tiến hành điều trị cho người nhiễm bệnh, mọi người nên lưu ý một số nguyên tắc, cụ thể như:
Cần tạo cho bệnh nhân có được một không gian nghỉ ngơi yên tĩnh. Không được làm phiền hay tạo cho bệnh nhân những kích thích mạnh.
Trong quá trình điều trị cần sử dụng kháng sinh để có thể t.iêu d.iệt hết các vi khuẩn.
Khống chế những biểu hiện gây nên tình trạng nguy hiểm cho tính mạng của bệnh như như cứng cơ, rối loạn thần kinh,…
Điều trị hỗ trợ như đặt máy thở trong trường hợp bệnh nhân bị nhiễm nặng. Sau khi bệnh nhân đã được điều trị phục hồi thì cần tiêm phòng vaccine để đảm bảo bệnh sẽ không tái phát.
Phương pháp phòng bệnh hiệu quả
Để có thể bảo vệ bản thân và phòng bệnh uốn ván hiệu quả nên tiến hành tiêm vaccine phòng uốn ván./.
Ho gà tăng cao, khuyến cáo biện pháp phòng bệnh
Để chủ động phòng bệnh cho trẻ nhỏ trước khi bước vào độ t.uổi tiêm chủng, các bà mẹ có thể tiêm vắc-xin phối hợp phòng bệnh uốn ván - bạch hầu - ho gà (Tdap) trong thời gian mang thai.
Cùng thời điểm này năm ngoái, Hà Nội chưa ghi nhận bất kỳ ca mắc ho gà nào, nhưng năm nay, số trẻ mắc đã vượt qua con số 100. Tình hình trẻ mắc ho gà cũng tăng tại nhiều địa phương khác.
Để chủ động phòng bệnh cho trẻ nhỏ trước khi bước vào độ t.uổi tiêm chủng, các bà mẹ có thể tiêm vắc-xin phối hợp phòng bệnh uốn ván - bạch hầu - ho gà (Tdap) trong thời gian mang thai.
Theo Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) Hà Nội, từ đầu năm 2024 đến nay đã ghi nhận 116 ca ho gà. Đây là con số gia tăng bất thường bởi cùng kỳ 2023 không ghi nhận ca bệnh.
Các ca bệnh hiện được ghi nhận rải rác, tập trung chủ yếu ở nhóm trẻ nhỏ chưa đến t.uổi tiêm vắc-xin hoặc chưa được tiêm chủng đầy đủ các mũi vắc-xin có thành phần ho gà.
Theo bác sĩ Nguyễn Văn Lâm, Giám đốc Trung tâm Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Nhi Trung ương, ho gà có biểu hiện và triệu chứng dễ nhầm với các bệnh hô hấp khác, đặc biệt ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Đáng lo ngại, đây là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính có khả năng lây lan cao, thời gian ủ bệnh dài.
Một số biến chứng nguy hiểm có thể gặp phải trong trường hợp trẻ mắc bệnh ho gà như viêm phổi nặng, là biến chứng hô hấp hay gặp, nhất là ở trẻ sơ sinh và trẻ suy dinh dưỡng; biến chứng viêm não với tỷ lệ t.ử v.ong cao...
Trẻ mắc ho gà còn có thể có các biến chứng như: Lồng ruột, thoát vị, sa trực tràng; trường hợp nặng có thể gặp vỡ phế nang, tràn khí trung thất hoặc tràn khí màng phổi; xuất huyết võng mạc, kết mạc mắt, rối loạn nước điện giải, bội nhiễm các vi khuẩn khác... Vì vậy, việc phát hiện sớm các dấu hiệu của bệnh để điều trị là rất quan trọng.
Các triệu chứng ho gà thường xuất hiện trong vòng 7-10 ngày sau khi nhiễm bệnh. Đa phần trường hợp bệnh nặng tập trung ở bé dưới 2 t.uổi, đặc biệt dưới 12 tháng t.uổi. Cần lưu ý, người lớn bị ho gà thường nhẹ nên dễ chủ quan và trở thành nguồn lây nhiễm chính cho trẻ nhỏ trong nhà.
T.rẻ e.m dễ bị bệnh ho gà tấn công, đặc biệt nhóm dưới 1 t.uổi bởi hệ miễn dịch chưa hoàn thiện nên nguy cơ t.ử v.ong cao hơn.
Ở nhóm chưa đủ t.uổi tiêm chủng (dưới 2 tháng), bé phụ thuộc vào kháng thể từ mẹ. Trẻ sinh ra từ người mẹ được tiêm phòng giúp giảm 91% nguy cơ mắc ho gà trong những tháng đầu đời so với trẻ có mẹ không chủng ngừa.
Để dự phòng ho gà, theo bác sĩ Nguyễn Tuấn Hải, Hệ thống tiêm chủng Safpo/Potec cho hay, tiêm vắc-xin là quan trọng nhất để bảo vệ sức khỏe cho trẻ.
Để chủ động phòng chống, cha mẹ cần lưu ý đưa trẻ đi tiêm chủng vắc-xin phòng bệnh ho gà đầy đủ, đúng lịch: Mũi thứ 1: Tiêm khi trẻ 2 tháng t.uổi. Mũi thứ 2: Sau mũi thứ nhất 1 tháng. Mũi thứ 3: Sau mũi thứ hai 1 tháng. Mũi thứ 4: Khi trẻ đủ 18 tháng t.uổi.
Đối với trẻ khi sinh ra từ các bà mẹ không có kháng thể phòng bệnh ho gà có nguy cơ mắc bệnh cao hơn so với trẻ nhận được kháng thể từ mẹ.
Để chủ động phòng bệnh cho trẻ nhỏ trước khi bước vào độ t.uổi tiêm chủng, các bà mẹ có thể tiêm vắc-xin phối hợp phòng bệnh uốn ván - bạch hầu - ho gà (Tdap) trong thời gian mang thai.
Song song với đó, cần thực hiện tốt các biện pháp khác như thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, che miệng khi ho hoặc hắt hơi; giữ vệ sinh thân thể, mũi, họng cho trẻ hàng ngày; đảm bảo nhà ở, nhà trẻ, lớp học thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng; hạn chế để trẻ đến những nơi đông người, tránh tiếp xúc với những người bị bệnh đường hô hấp, đặc biệt là người bệnh ho gà.
Các bậc phụ huynh cần phân biệt ho gà và ho thông thường để đưa trẻ đến bệnh viện kịp thời. Khi nghi ngờ mắc bệnh ho gà hoặc có bất kỳ dấu hiệu nào của bệnh như có nhiều cơn ho, trong cơn ho có đỏ hoặc tím mặt, thời gian mỗi cơn ho kéo dài; ăn kém, nôn chớ nhiều; ngủ ít; thở nhanh/khó thở, cần đưa trẻ đến bệnh viện để được thăm khám, xác định căn nguyên và hỗ trợ điều trị sớm.
Với trẻ đã mắc ho gà, theo bác sĩ CK1 Bùi Thu Phương, Khoa Nhi, Bệnh viện Trung ương quân đội 108, khi mắc ho gà, trẻ cần được nghỉ ngơi trong phòng yên tĩnh, ít ánh sáng, thoải mái, tránh lo lắng, tránh môi trường có các yếu tố nguy cơ như khói t.huốc l.á, bụi tiếng ồn, nhiều chất kích thích.
Chia nhỏ bữa ăn cho trẻ, tránh ăn quá nhiều bữa trong ngày. Cần theo dõi sát cơn ho của trẻ, cung cấp đủ oxy và máy hút khi cần thiết
Kháng sinh: Cần cho sớm. Chỉ định khi nghi ngờ hoặc chẩn đoán xác định mắc ho gà cho trẻ dưới 1 tháng t.uổi trong vòng 6 tuần từ khi khởi phát cơn ho, trẻ trên 1 t.uổi thì trong vòng 3 tuần từ khi khởi phát cơn ho.
Có thể sử dụng kháng sinh Erythromycin, clarithromycin hoặc Azithromycin với trẻ> 1 tháng t.uổi. Trẻ sơ sinh dưới 1 tháng chỉ nên dùng Azithromycin.
Một số điều trị khác: Corticoid thường không được khuyến cáo; IVIG chung không chứa kháng thể đặc hiệu không được chỉ định trong bệnh ho gà...
Điều trị suy hô hấp: Bệnh nhân cần được thở oxy khi có các biểu hiện suy hô hấp như thở nhanh, gắng sức, tím tái, SpO2 dưới 92 % khi thở khí trời. Đặt ống nội khí quản và hỗ trợ hô hấp sớm khi có các dấu hiệu suy hô hấp nặng và/ hoặc có dấu hiệu suy tuần hoàn.
Điều trị tăng áp lực động mạch phổi, thay m.áu hoặc màng trao đổi oxy ngoài cơ thể( ECMO): Chỉ định và thực hiện tại các cơ sở y tế chuyên sâu có điều kiện chăm sóc và theo dõi sát cho trẻ.
Cách ly: Trẻ nhập viện cần được thực hiện các biện pháp dự phòng chuẩn, các biện pháp dự phòng lây qua đường hô hấp được khuyến cáo ít nhất 5 ngày sau khi bắt đầu điều trị kháng sinh. Nên cách ly trẻ 3-4 tuần để giảm thiểu nguy cơ lây bệnh, giảm các kích thích cho trẻ và tránh các mối lo lắng bị lây bệnh cho các thành viên trong gia đình.
Ngoài ra cần dự phòng sau phơi nhiễm bằng kháng sinh cho những người trong gia đình tiếp xúc gần với trẻ và những người chăm sóc trẻ ở bất kỳ t.uổi nào, t.iền sử tiêm phòng và có triệu chứng hay không. Tiêm phòng cho những người tiếp xúc gần cũng nên được xem xét.
Làm gì để nhanh khỏi bệnh thủy đậu? Thủy đậu có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm Bị thủy đậu bao nhiêu ngày là khỏi? Nếu chăm sóc đúng cách, thủy đậu có thể tự khỏi trong vòng từ 7-10 ngày, thông thường bệnh trải qua 3 giai đoạn: - Sau khi tiếp xúc với người bệnh đến lúc phát hiện ra bệnh sẽ rơi vào khoảng từ 2-3...