Ai cần dùng thuốc bổ máu?
Thuốc bổ máu gồm các chất thuộc thành phần cấu tạo của tế bào máu. Chúng thường có trong thức ăn song do chế độ ăn không đủ, do cơ thể bị bệnh, do hấp thu kém mà thiếu. Vì vậy, cần phải bổ sung bằng thuốc.
Sắt và thiếu máu nhược sắc
Tại dạ dày, sắt chuyển thành dạng tan hóa trị ( 2) đi xuống niêm mạc ruột (tá tràng) sẽ được apoferitin đón và chuyển thành phức chất sắt hóa trị ( 3) vào máu, đến các mô. Tại đó, phức chất nhả sắt ra, apoferrin quay trở lại đón sắt ( 2) mới. Phần lớn, sắt tập trung tại tủy xương, kết hợp với globulin, tạo ra hồng cầu. Phần còn lại, dự trữ tại gan, tủy xương, lách, hệ nội võng mô (dạng ferritin, hemosiderin). Sắt trong hồng cầu chiếm 65-75%, sắt dự trữ chiếm 15-30% trong tổng lượng sắt chung. Nguyên nhân thiếu sắt do:
Mất nhiều máu: Ở người chạy thận nhân tạo, người xuất huyết dạ dày, xuất huyết đường ruột (do giun kim), đái ra máu, hành kinh kéo dài…
Ăn không đủ: Nhu cầu sắt mỗi ngày đối với nam giới là 1mg, nữ từ 1,6-2mg. Cơ thể chỉ hấp thu 10-15% sắt từ thức ăn động vật, 5% từ thực vật. Tỷ lệ sắt ở thực vật thấp hơn động vật, ở động vật dưới nước thấp hơn trên cạn. Ăn ít, không đủ chủng loại (ăn chay ròng), không đúng cách (chỉ ăn nước ép thịt) sẽ bị thiếu sắt.
Nhu cầu tăng: Từ lúc có thai đến khi trẻ 6 tháng, bà mẹ cần thêm khoảng 955mg sắt. Khi dùng erythropoietin (EPO) kích thích tạo hồng cầu sẽ cần sắt nhiều hơn. Nếu không thay đổi chế độ ăn cho phù hợp, sẽ thiếu sắt (40-50% nữ mang thai bị thiếu sắt).
Sự hấp thu kém: tuổi già, bị bệnh (đường ruột) hấp thu sắt giảm. Sử dụng thuốc có tính kiềm (naribicarbaonat, muối nhôm, muối canxicarbonat) gây trở ngại cho sự hấp thu sắt.
Bổ sung sắt cần đúng cách: Cần sắt, cần cả chất porphyrin và protein mới tạo ra được hồng cầu, nên khi thiếu sắt, thiếu dinh dưỡng thì bị thiếu máu nhược sắc, còn gọi là thiếu máu dinh dưỡng. Bổ sung sắt phải đi đôi với bổ sung chất dinh dưỡng (đặc biệt là chất đạm). Dùng dạng uống sẽ ít gây tai biến hơn. Chỉ có 20% người dùng đau vùng thượng vị, nôn mửa, táo bón, tiêu chảy (do phối hợp với thuốc nhuận tràng), răng lợi bị sẫm lại, phân đen (nhưng không gây hại), chỉ xảy ra khi dùng liều cao. Khi uống sắt cần uống lúc dạ dày rỗng để sắt hấp thu tốt hơn. Nghĩa là uống 1 giờ trước ăn hay 2 giờ sau khi ăn.
Video đang HOT
Dạng tiêm bắp gây đau nhức, đổi màu da vùng tiêm, dị ứng, phát sốt, tim đập nhanh, đau khớp, tăng bạch cầu, hạch sưng to. Dạng tiêm tĩnh mạch gây co thắt, viêm tĩnh mạch ,dị ứng, sốc phản vệ (có thể tử vong).
Dùng quá liều hiếm khi gây bệnh thừa sắt (vì còn phụ thuộc vào gen), song có thể gây hoại tử niêm mạc ruột, xuất huyết tiêu hóa, choáng.
Mật độ hồng cầu bình thường.- Mật độ hồng cầu giảm trong thiếu máu.
Acid folic với bệnh thiếu máu hồng cầu to
Acid folic bị khử thành tetrahydrofolat. Ở dạng này, nó tham gia vào nhiều quá trình chuyển hóa, trong đó có tổng hợp nucleotid có nhân purin hoặc pirimidin, yếu tố không thể thiếu trong tạo hồng cầu. Khi thiếu acid folic, tế bào tạo máu ở tủy sẽ biến dạng, to ra, gọi là thiếu máu to hồng cầu (megalobasic anemia).
Acid folic (dạng folat) có nhiều trong thức ăn, dễ hấp thu (khoảng 60%) nhưng rất dễ hỏng khi bảo quản, dễ bị phân hủy do nhiệt. Người ăn thức ăn đơn điệu, ăn thức ăn nhanh như đồ hộp, mì ăn liền, thức ăn chiên khô (acid folic bị mất nhiều), người nghiện rượu ma túy (acid folic hấp thu kém) sẽ thiếu acid folic. Có thể bổ sung bằng lương thực hay sữa bổ sung acid folic, nhưng thiếu nhiều và kéo dài thì phải dùng thuốc.
Vitamin B12 và bệnh thiếu máu hồng cầu to, thiếu máu ác tính
Vitamin B12 ảnh hưởng gián tiếp đến tổng hợp DNA. Thiếu nó, quá trình tạo ra tetrahydrofolat bị trở ngại, tế bào tạo máu phát triển to gọi là thiếu máu hồng cầu to. Khi ăn không đủ (như vitamin B12 chỉ có trong động vật song chỉ ăn chay ròng) dễ bị thiếu B12.
Trong dạ dày có một yếu tố bảo vệ vitamin B12, thiếu yếu tố này thì dù ăn đủ, vitamin B12 cũng không hấp thu được, dẫn đến thiếu máu hồng cầu to, trường hợp này khác với trường hợp trên, gọi là thiếu máu ác tính (pernicicous anemia).
Vitamin B12 dùng điều trị bệnh thiếu máu hồng cầu to (phối hợp với acid folic). Khi khỏi không cần dùng liều duy trì. Nhưng trong điều trị thiếu máu ác tính, dùng liều hàng ngày, sau đó chuyển sang liều duy trì mỗi tuần 1 lần, rồi mỗi tháng 1 lần và phải dùng suốt đời (vì không thể tạo ra yếu tố bảo vệ vitamin B12).
Erythropoietin (EPO), testosrteron và bệnh thiếu máu không tái tạo.
Testosteron kích thích thận tạo ra EPO. Còn EPO thì kích thích tạo ra hồng cầu. Cả hai đều dùng trong thiếu máu không tái tạo, nhưng testosteron dùng khi thận còn có khả năng tạo EPO, khi thận suy (khi chạy thận nhân tạo) cần dùng EPO. Đây là những thuốc khó về chỉ định lẫn kỹ thuật dùng. Vì vậy, khi dùng phải có chỉ định và theo dõi của bác sĩ.
Theo dân trí
Mẹ ăn uống lành mạnh, con giảm nguy cơ dị tật
Một nghiên cứu mới đây cho thấy phụ nữ mang thai có chế độ ăn lành mạnh giảm nguy cơ sinh con bị dị tật bẩm sinh như nứt đốt sống hoặc hở hàm ếch.
Dị tật ống thần kinh bao gồm nứt đốt sống và các bất thường ở não được biết là có thể giảm bằng cách bổ sung acid folic, một dạng vitamin B cũng có trong nhiều loại thực phẩm. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cho biết chỉ riêng acid folic không thể phòng ngừa tất cả các dị tật bẩm sinh.
Carmichael tác giả chính của nghiên cứu thuộc Trường Đại học Stanford cho biết chế độ ăn cũng có thể giúp giảm các dị tật bẩm sinh vì việc kết hợp các dưỡng chất từ thực phẩm có thể hoạt động cùng nhau theo cách thức có lợi.
Sử dụng số liệu từ Nghiên cứu Phòng ngừa Dị tật Bẩm sinh quốc gia Mỹ từ tháng 10/1997 đến tháng 12/2005, nhóm nghiên cứu đã xem xét vai trò của chế độ ăn đối với các dị tật bẩm sinh.
Các nhà nghiên cứu đã xem xét 936 trẻ bị dị tật ống thần kinh khi sinh, 2.475 trẻ bị hở miệng và so sánh những trẻ này với 6.147 trẻ không bị dị tật bẩm sinh.
Kết quả cho thấy những phụ nữ có chế độ ăn giống với chế độ ăn theo kiểu Địa Trung Hải - gồm nhiều hoa quả, rau xanh, ngũ cốc nguyên cám, cá, ít chất béo và đường hoặc chế độ ăn theo kim tự tháp thực phẩm của Bộ Nông nghiệp Mỹ giảm nguy cơ sinh con bị dị tật ống thần kinh hoặc hở miệng hơn so với những phụ nữ có chế độ ăn kém lành mạnh. Các kết quả này vẫn giữ nguyên sau khi hiệu chỉnh các yếu tố khác như việc bổ sung vitamin hoặc khoáng chất.
Nghiên cứu này hỗ trợ khuyến nghị đã được đưa ra trong nhiều năm cho rằng phụ nữ mang thai nên ăn đa dạng các loại thực phẩm bao gồm hoa quả, rau xanh và ngũ cốc nguyên cám và dùng các sản phẩm bổ sung vitamin chứa acid folic.
Nghiên cứu được công bố trực tuyến trên tạp chí Archives of Pediatrics & Adolescent Medicine ngày 3/10.
Thanh Mai
Theo dân trí
Thịt trắng hay thịt đỏ tuyệt hơn? Thịt trắng và thịt đỏ, loại nào tốt hơn vẫn còn là ẩn số gây tranh cãi. Thực hư vấn đề này ra sao? Thịt đỏ là các loại thịt như thịt bê, thịt bò, thịt cừu, thịt trâu, thịt lợn, thịt ngựa. Lợi thế của thịt đỏ là có chứa nhiều vitamin B12 (giúp sản sinh DNA, nuôi dưỡng các tế bào...