Thiếu chất sắt lúc sơ sinh làm giảm hiệu quả vắc xin
Các nhà khoa học thuộc Đại học ETH Zurich (Thụy Sĩ) cho biết phát hiện từ hai nghiên cứu lâm sàng với trẻ em ở Kenya, được công bố trên chuyên san Frontiers in Immunology, cho thấy thiếu chất sắt có liên quan đến hiệu quả của vắc xin.
Ảnh: Shutterstock
Hơn một nửa số trẻ em trong nghiên cứu đầu bị thiếu máu lúc 10 tuần tuổi; và đến 24 tuần, hơn 90% số trẻ có lượng huyết sắc tố và hồng cầu thấp. Nhóm chuyên gia thấy rằng mặc dù được tiêm vắc xin, nguy cơ thiếu kháng thể chống bệnh bạch hầu, phế cầu khuẩn và các mầm bệnh khác trong máu ở trẻ thiếu máu cao gấp đôi so với những trẻ không bị thiếu máu.
Trong nghiên cứu thứ hai, nhóm chuyên gia theo dõi việc bổ sung loại bột chứa vi chất dinh dưỡng cho 127 trẻ hơn 6 tháng tuổi hằng ngày trong 4 tháng. Có 85 trẻ được dùng bột chứa chất sắt và 42 trẻ còn lại không được bổ sung chất sắt. Khi được tiêm vắc xin phòng bệnh sởi lúc 9 tháng tuổi thì những trẻ được bổ sung chất sắt phát triển phản ứng miễn dịch mạnh mẽ hơn. Theo các chuyên gia, trẻ bổ sung chất sắt không chỉ có nhiều kháng thể sởi trong máu lúc 12 tháng tuổi mà các kháng thể của nhóm trẻ này nhận ra mầm bệnh tốt hơn.
Nhóm nghiên cứu tin rằng ngừa thiếu máu ở trẻ nhỏ bằng cách bổ sung chất sắt trong chế độ ăn uống sẽ cải thiện sự bảo vệ từ vắc xin. Thực phẩm giàu chất sắt là thịt đỏ, cá, thịt gia cầm, đậu các loại, đậu phụ, khoai tây nướng, hạt điều, cải bó xôi (ảnh), ngũ cốc…
Vi khuẩn bạch hầu có thể sống trên quần áo tới 30 ngày
Vi khuẩn bạch hầu có thể sống được 30 ngày trên đồ vải như chăn, màn, quần áo, gối. Trên cốc, chén, thìa, bát đũa, đồ chơi vi khuẩn bạch hầu có thể sống được vài ngày. Trong sữa, nước uống vi khuẩn bạch hầu sống 20 ngày và trong tử thi vi khuẩn bạch hầu sống được 2 tuần.
Trẻ cần được tiêm đủ 3 mũi vắc xin phòng bạch hầu. Ảnh minh họa: Ngọc Nga
Video đang HOT
Sức đề kháng ở ngoài cơ thể rất cao
Ngày 18/8/2020, Bộ Y tế ban hành Quyết định số 3593/QĐ-BYT "Hướng dẫn giám sát và phòng, chống bệnh bạch hầu". Theo đó, bệnh bạch hầu là bệnh truyền nhiễm cấp tính thuộc nhóm B. Bệnh gây ra do vi khuẩn bạch hầu sinh độc tố (Corynebacterium diphtheriae) gồm 4 típ sinh học là Gravis, Mitis, Intermedius và Belfanti.
Bốn típ sinh học này chỉ khác nhau về đặc điểm hình thái khuẩn lạc và một số đặc điểm sinh vật hoá học nhưng không có sự khác biệt trong biểu hiện lâm sàng cũng như khả năng lây truyền. Sức đề kháng của vi khuẩn bạch hầu ở ngoài cơ thể rất cao, chịu được khô lạnh, đặc biệt khi được chất nhày bảo vệ.
Trên đồ vải như chăn, màn, quần áo, gối vi khuẩn bạch hầu có thể sống được 30 ngày; trên cốc, chén, thìa, bát đũa, đồ chơi vi khuẩn bạch hầu có thể sống được vài ngày; trong sữa, nước uống vi khuẩn bạch hầu sống 20 ngày; trong tử thi vi khuẩn bạch hầu sống được 2 tuần.
Vi khuẩn bạch hầu nhạy cảm với các yếu tố lý, hoá. Dưới ánh sáng mặt trời trực tiếp vi khuẩn sẽ bị tiêu diệt sau vài giờ. Nhiệt độ 58 độ C sống được 10 phút và bị tiêu diệt nhanh chóng ở nhiệt độ sôi. Vi khuẩn cũng dễ bị tiêu diệt bởi các hoá chất khử trùng thông thường.
Tỷ lệ tử vong khoảng 5-10%
Bệnh bạch hầu lưu hành trên toàn cầu, hay gặp là các ca bệnh tản phát hoặc các vụ dịch nhỏ, chủ yếu ở nhóm dưới 15 tuổi không được tiêm vắc xin. Tuy nhiên hiện nay đã ghi nhận số mắc tăng ở nhóm trẻ lớn và người lớn tại những vùng không được tiêm chủng hoặc tỷ lệ tiêm chủng thấp.
Bệnh lây truyền từ người sang người qua đường hô hấp do tiếp xúc trực tiếp với người bệnh hoặc người lành mang trùng và hít phải các chất tiết đường hô hấp của người bệnh bắn ra khi ho, hắt hơi.
Bệnh cũng có thể lây qua tiếp xúc với đồ vật bị ô nhiễm với các chất tiết của người bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu. Thời kỳ ủ bệnh thường từ 2 đến 5 ngày.
Biểu hiện lâm sàng chủ yếu có sốt, ho, đau họng, hạch góc hàm sưng đau (cổ bạnh), tình trạng nhiễm trùng, nhiễm độc toàn thân, có giả mạc màu trắng xám, dai, dính ở amidal hoặc thành sau họng.
Bệnh nhân cũng có thể bị viêm cơ tim, nhiễm độc thần kinh dẫn đến tử vong do ngoại độc tố của vi khuẩn. Tỷ lệ tử vong khoảng 5-10%.
Sức đề kháng sẽ suy giảm nếu không được tiêm nhắc lại
Người bệnh và người lành mang trùng vừa là ổ chứa, vừa là nguồn truyền bệnh, trong đó người lành mang trùng đóng vai trò duy trì nguồn truyền nhiễm ở cộng đồng, điều này giải thích bệnh bạch hầu có thể đột nhiên xảy ra ở những nơi mà trước đó không thấy có ca bệnh xuất hiện.
Thời kỳ lây truyền thường bắt đầu từ khi khởi phát và kéo dài khoảng 2 tuần, đôi khi lên tới 4 tuần. Trong một số trường hợp đã ghi nhận người mang vi khuẩn mãn tính trên 6 tháng.
Điều trị kháng sinh đặc hiệu sẽ nhanh chóng tiêu diệt mầm bệnh và chấm dứt sự lây truyền.
Bệnh đã có vắc xin và kháng sinh đặc hiệu để phòng và điều trị, tuy nhiên vắc xin giải độc tố bạch hầu chỉ tạo ra miễn dịch kháng độc tố có tác dụng bảo vệ cơ thể không bị mắc bệnh nhưng không ngăn ngừa được sự nhiễm vi khuẩn tại chỗ ở hầu họng, do vậy không làm giảm được tình trạng người lành mang trùng sau khi tiêm vắc xin.
Mọi lứa tuổi đều có thể bị mắc bệnh nếu không có miễn dịch đặc hiệu hoặc nồng độ kháng thể ở dưới mức bảo vệ. Kháng thể của mẹ truyền sang con có tác dụng bảo vệ và thường sẽ hết tác dụng trước 6 tháng tuổi.
Miễn dịch có được sau mắc bệnh thường bền vững. Sau tiêm vắc xin liều cơ bản miễn dịch có thể kéo dài được vài năm song thường giảm dần theo thời gian nếu không được tiêm nhắc lại.
Cần tiêm phòng vắc xin đầy đủ
Đối với trẻ em dưới 1 tuổi bắt đầu được tiêm chủng
Tiêm các mũi cơ bản, tiêm 3 mũi cơ bản vắc xin có chứa thành phần bạch hầu nguyên liều, thường kết hợp trong các vắc xin 5 trong 1 hoặc vắc xin 6 trong 1: mũi thứ 1 tiêm lúc 2 tháng tuổi; mũi thứ 2 lúc 3 tháng tuổi; mũi thứ 3 lúc 4 tháng tuổi. Tốt nhất nên hoàn thành mũi thứ 3 trước 6 tháng tuổi.
Tiêm nhắc lại
Mũi 4, tiêm vắc xin có thành phần bạch hầu nguyên liều, tiêm lúc 18 đến 24 tháng tuổi.
Mũi 5, tiêm vắc xin có thành phần bạch hầu giảm liều lúc 4 đến 7 tuổi.
Mũi 6, tiêm vắc xin có thành phần bạch hầu giảm liều lúc 9 đến 15 tuổi.
Đối với trẻ em trên 1 tuổi và người lớn chưa được tiêm chủng trước đây hoặc không nhớ tiền sử tiêm chủng
Tiêm các mũi cơ bản, tiêm 3 mũi cơ bản vắc xin có chứa thành phần bạch hầu theo hàm lượng phù hợp với lứa tuổi và hướng dẫn của nhà sản xuất (vắc xin bạch hầu nguyên liều hoặc vắc xin bạch hầu giảm liều): mũi thứ 1 tiêm càng sớm càng tốt; mũi thứ 2 tiêm cách mũi thứ 1 tối thiểu 4 tuần; mũi thứ 3 tiêm cách mũi thứ 2 tối thiểu là 6 tháng.
Tiêm nhắc lại, tiêm nhắc lại 2 mũi vắc xin có chứa thành phần bạch hầu theo hàm lượng phù hợp với lứa tuổi và hướng dẫn của nhà sản xuất (vắc xin bạch hầu nguyên liều hoặc vắc xin bạch hầu giảm liều). Các mũi tiêm nhắc lại cách nhau tối thiểu 1 năm.
Hướng dẫn giám sát và phòng, chống bệnh bạch hầu Bệnh bạch hầu là bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm độc cấp tính do vi khuẩn bạch hầu gây nên, lây lan nhanh và đang có diễn biến phức tạp. Bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ, cũng có thể ở người lớn. Trước diễn biến mới của bệnh này trong thời gian gần đây, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 3593/QĐ-BYT ngày...