Mức nhiệt khi nấu ăn dễ biến dinh dưỡng thành chất độc
Trong quá trình chế biến nóng, các chất dinh dưỡng chịu những biến đổi lý hóa một cách đa dạng.
Nấu nướng ở nhiệt độ cao quá lâu, giá trị dinh dưỡng giảm đi vì tạo thành các liên kết khó tiêu. Ảnh: IG zabbthaispicekitchen.
Hầu hết thực phẩm cần trải qua quá trình chế biến, nấu nướng trước khi sử dụng. Tuy nhiên, theo TS.BS Hoàng Kim Thanh, Nguyên Giám đốc Trung tâm Truyền thông và Giáo dục Dinh dưỡng, Viện Dinh dưỡng Quốc gia, trong quá trình chế biến nóng, các chất dinh dưỡng có thể trải qua những biến đổi lý hóa phức tạp, ảnh hưởng đến chất lượng thực phẩm và sức khỏe người tiêu dùng.
Chất đạm (protein)
Ở nhiệt độ 70 độ C, protein bắt đầu đông vón và dễ tiêu hóa hơn. Tuy nhiên, khi tiếp xúc với nhiệt độ cao trong thời gian dài, protein có thể thoái hóa, giảm giá trị dinh dưỡng và tạo thành các liên kết khó tiêu.
Rủi ro từ nấu ở nhiệt độ quá cao:
Khi rán thực phẩm trong dầu mỡ, nhiệt độ có thể vượt 200 độ C.
Nướng trên bếp than có thể đạt 300 độ C, làm protein biến chất và hình thành các hợp chất có hại.
TS.BS Hoàng Kim Thanh khuyến cáo, các thực phẩm giàu chất đạm như thịt, cá, trứng nên được nấu chín ở nhiệt độ từ 70-100 độ C để tiê.u diệ.t vi khuẩn và virus. Khi luộc thịt, cá hoặc nội tạng, cần đảm bảo chín kỹ, đặc biệt ở phần sát xương không còn màu hồng. Hạn chế nướng, quay hoặc rán thực phẩm ở nhiệt độ cao trong thời gian dài.
Chất béo (lipid)
Ở nhiệt độ dưới 102 độ C, chất béo chủ yếu chỉ hóa lỏng mà không có biến đổi lớn. Tuy nhiên, khi nấu ở nhiệt độ cao trong thời gian dài, axit béo không no bị oxy hóa, làm mất tác dụng có lợi và hình thành các chất trung gian như peroxit aldehyt – gây hại cho cơ thể.
Khi mỡ chảy xuống bếp lửa, các hợp chất hydrocarbon thơm (PAHs) sinh ra mùi thơm đặc trưng nhưng cũng là tác nhân gây ung thư.
“Do vậy, người dân không nên tái sử dụng dầu mỡ đã qua rán ở nhiệt độ cao. Ngoài ra, chúng ta nên hạn chế mua thức ăn rán, quay bán sẵn (quẩy, bánh rán, gà quay…) khi thấy chảo dầu, mỡ dùng cho việc chế biến không còn trong, đã được sử dụng nhiều lần và có màu đen cháy”, TS.BS Hoàng Kim Thanh nhấn mạnh.
Video đang HOT
Người dân không nên tái sử dụng dầu mỡ đã qua rán ở nhiệt độ cao. Ảnh: Hakosemofficial.
Chất bột (gluxit)
Chất bột gồm các loại đường đơn, đường kép, tinh bột, cellulose. Ở nhiệt độ đun sôi, các loại đường đơn giản không có biến đổi đáng kể. Quá trình chế biến nóng làm cho tinh bột dễ tiêu hơn, celluloza không bị nứt ra và trở nên mềm hơn, cho phép các dịch tiêu hóa tiếp xúc với thành phần dinh dưỡng trong tế bào thực vật.
Tuy nhiên, khi chế biến ở nhiệt độ quá cao, đặc biệt là môi trường khô không có nước, các thành phần của tinh bột cũng bị biến đổi khó tiêu hóa hoặc độc hại với cơ thể.
Các loại chất khoáng (canxi, phosootspho, kali, magiê…) trong quá trình nấu có các biển đổi về số lượng do chúng hòa tan vào nước. Do vậy, với món hầm, soup, bác sĩ Thanh cho rằng người dân nên sử dụng thức ăn cả phần cái và phần nước.
TS.BS Hoàng Kim Thanh nhấn mạnh việc chế biến thực phẩm ở mức nhiệt phù hợp không chỉ giúp bảo toàn dinh dưỡng mà còn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Điều này hỗ trợ cơ thể hấp thu dinh dưỡng tốt hơn và ngăn ngừa nguy cơ hình thành các chất độc hại.
Thừa vitamin E có gây hại cho sức khỏe không?
Vitamin E rất quan trọng đối với sức khỏe nhưng việc bổ sung quá nhiều vitamin E lại có thể gây ra những tác dụng phụ không mong muốn.
1. Thiếu hay thừa vitamin E đều có hại tới cơ thể
Sự thiếu hụt vitamin E rất hiếm gặp ở những người khỏe mạnh vì hầu hết mọi người nhận được lượng vitamin E cần thiết từ chế độ ăn uống. Sự thiếu hụt vitamin E có liên quan đến một số bệnh mạn tính hoặc rối loạn di truyền hiếm gặp, gây suy giảm sự hấp thụ chất béo, chẳng hạn như bệnh Crohn hoặc bệnh xơ nang. Tình trạng thiếu vitamin E cũng có thể xảy ra nếu bạn theo chế độ ăn kiêng rất thiếu chất béo.
Ở những người bị rối loạn di truyền gây thiếu hụt vitamin E nghiêm trọng có thể dẫn đến các vấn đề thần kinh, chẳng hạn như phối hợp và kiểm soát cơ bắp kém. Nếu không được điều trị, tình trạng thiếu vitamin E có nguy cơ dẫn đến tổn thương thần kinh vĩnh viễn, mù lòa, bệnh tim, giảm khả năng tập trung và có thể là nguyên nhân gián tiếp gây vô sinh ở nam giới.
Tuy nhiên, quá nhiều vitamin E cũng gây ra những biến chứng nguy hiểm cho sức khỏe. Trong trường hợp nếu uống quá liều vitamin E sẽ khiến cơ thể có triệu chứng như: đau đầu, mệt mỏi, buồn nôn, phát ban nhẹ. Một số người còn bị đau bụng, rối loạn tiêu hóa, suy nhược cơ thể.
Vitamin E rất quan trọng cho sức khỏe nhưng bổ sung quá nhiều có thể gây ra những tác dụng phụ nghiêm trọng.
2. Tại sao thừa vitamin E lại nguy hiểm?
Thừa vitamin E có thể dẫn đến những tác dụng phụ nguy hiểm tới sức khỏe:
- Làm loãng má.u: Một trong những tác dụng phụ nghiêm trọng nhất của việc thừa vitamin E là làm loãng má.u, tăng nguy cơ chả.y má.u. Điều này có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm như xuất huyết nội tạng.
- Cản trở quá trình đông má.u: Vitamin E có thể làm giảm khả năng đông má.u của cơ thể, khiến vết thương khó lành và tăng nguy cơ nhiễ.m trùn.g.
- Ảnh hưởng đến hệ thần kinh: Một số nghiên cứu cho thấy việc bổ sung vitamin E liều cao trong thời gian dài có thể gây ra các vấn đề về thần kinh như đau đầu, chóng mặt, mệt mỏi.
- Tương tác với thuố.c: Vitamin E có thể tương tác với một số loại thuố.c, làm giảm hiệu quả của thuố.c hoặc tăng nguy cơ tác dụng phụ. Ví dụ thuố.c chống đông má.u, thuố.c chống kết tập tiểu cầu simvastatin, niacin, các chất dùng trong hóa trị và xạ trị,...
Vitamin E vốn có tính đối kháng với vitamin K và tương tác với aspirin. Nếu dùng quá nhiều sẽ làm tăng thời gian đông má.u, ngăn sự kết tiểu cầu. Đồng thời, khi dùng chung với estrogen trong thời gian dài có thể gây ra huyết khối.
3. Dấu hiệu nhận biết thừa vitamin E
Thông thường, việc sử dụng viên uống bổ sung vitamin E với liều giới hạn sẽ không gây bất kỳ tác dụng phụ nào. Các loại thực phẩm bổ sung thường có hàm lượng vitamin E từ 400-1.000 IU mỗi ngày. Những đối tượng có nguy cơ thừa vitamin E là: người sử dụng thực phẩm chức năng chứa vitamin E với liều cao trong thời gian dài; người có bệnh lý về gan; người sử dụng đồng thời nhiều loại thuố.c khác nhau,...
Quá nhiều vitamin E có thể gây ra các tác dụng phụ như đau đầu, chóng mặt, mệt mỏi và thậm chí làm tăng nguy cơ chả.y má.u.
Mặc dù việc bổ sung vitamin E là an toàn nhưng nếu dùng quá liều có thể gây nguy cơ chả.y má.u - đặc biệt là người đang dùng thuố.c làm loãng má.u - vì vậy giới hạn tối đa được khuyến cáo cho người lớn là 1.000mg (1.465 IU) mỗi ngày. Khi cơ thể bị tích trữ lượng lớn vitamin này và không thể đào thải được, cơ thể sẽ có những dấu hiệu sau:
Mệt mỏi, yếu cơ;
Đau đầu, chóng mặt;
Buồn nôn, tiêu chảy;
Dễ bị bầm tím, chả.y má.u;
Rối loạn thị giác...
Khi xuất hiện những dấu hiệu này nên ngừng ngay việc sử dụng vitamin E và theo dõi cơ thể. Những triệu chứng này sẽ biến mất trong 1-2 ngày. Tuy nhiên, nếu tình trạng này không cải thiện thì nên đi khám bác sĩ ngay để có phương pháp khắc phục.
4. Làm thế nào để tránh thừa vitamin E?
Việc bổ sung vitamin E cần được thực hiện một cách khoa học và có sự hướng dẫn của chuyên gia y tế. Tự ý bổ sung vitamin E có thể gây ra nhiều nguy hiểm cho sức khỏe. Trước khi sử dụng bất kỳ loại thực phẩm chức năng nào, mọi người hãy tham khảo ý kiến của bác sĩ và cần phải sử dụng kiên trì trong liều lượng cho phép.
Quá nhiều vitamin E có thể gây nguy hiểm, vì vậy hãy hạn chế lượng tiêu thụ ở mức thấp hơn 1.000mg hoặc tối đa là 1.500 đơn vị quốc tế/ngày. Khi sử dụng thực phẩm chức năng, hãy đọc kỹ hướng dẫn sử dụng và không vượt quá liều lượng khuyến cáo. Những người trưởng thành khỏe mạnh, bao gồm cả trong thời kỳ mang thai và cho con bú được khuyến cáo không nên bổ sung quá 300mg vitamin E mỗi ngày, cao hơn khoảng 27 lần so với nhu cầu khuyến nghị đối với loại vitamin này.
Tốt nhất nên bổ sung vitamin mà cơ thể cần từ nguồn thực phẩm tiêu thụ hàng ngày. Thay vì bổ sung vitamin E bằng viên uống, hãy ưu tiên các nguồn thực phẩm tự nhiên giàu vitamin E như hạt, quả bơ, dầu thực vật.
Thời điểm uống cà phê ngăn ngừa nguy cơ t.ử von.g do bệnh tim mạch Uống cà phê vào buổi sáng có thể mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe hơn là uống cả ngày. Một nghiên cứu liên quan đến hơn 40.000 người lớn tại Mỹ phát hiện rằng thời điểm uống cà phê có thể ảnh hưởng đến sức khỏe, đặc biệt là nguy cơ t.ử von.g do bệnh tim. Các nhà khoa học đã...