Mỗi người phải trở thành những công dân số, học tập suốt đời
Theo GS. Phạm Tất Dong để khai thác tốt tiềm năng của người Việt, biến thành động lực cho sự phát triển KT, xã hội thì mỗi người phải trở thành những công dân số, học tập suốt đời.
GS. Phạm Tất Dong, Phó chủ tịch, Tổng thư ký Hội Khuyến học Việt Nam.
Nếu hình dung cuộc cách mạng 4.0 đang diễn ra như một đoàn tàu chạy với tốc độ cao thì con người chúng ta ở đâu trong đó, thưa giáo sư?
Ở bất kỳ quốc gia, dân tộc nào, con người cũng là chủ thể, là động lực cho sự phát triển. Tất cả mọi sản phẩm, của cải vật chất đều do con người lao động, sản xuất, sáng tạo ra. Chính vì vậy, dù trong giai đoạn phát triển kinh tế nào, con người vẫn giữ vai trò là người lái tàu, quyết định vận tốc, quyết định đoàn tàu chạy đúng đường ray hay lạc mất phương hướng.
Khi xã hội càng phát triển, thì vai trò của con người, đặc biệt con người có trí tuệ càng trở nên quan trọng. Tri thức của con người sẽ là nguồn lực, động lực chủ yếu tạo nên sự tăng trưởng trong kinh tế tri thức của các quốc gia. Và trong cuộc cách mạng 4.0 hiện nay, nguồn lực con người được đặt ở vị trí trung tâm, khơi dậy và phát huy tiềm năng của các nguồn lực khác để từ đó ở mỗi cấp độ quản lý từ vĩ mô đến vi mô đồng bộ đưa ra các giải pháp phù hợp để phát triển nguồn lực này.
Vậy theo giáo sư nguồn lực con người trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 có gì khác so với thời kỳ trước?
Trong nền kinh tế tri thức thì chuyển đổi số là xu hướng cần thiết. Việt Nam đang thực hiện chuyển đổi số, xây dựng nền kinh tế tri thức dựa trên 3 trụ cốt là xã hội số, kinh tế số và chính phủ số.
Xã hội số được hình thành từ những công dân số. Vậy thế nào là công dân số? Công dân số chắc chắn phải là những người hiểu biết về công nghệ. Họ có kiến thức về phần cứng và phần mềm, cũng như kỹ năng sử dụng máy móc, thiết bị điện tử. Họ sử dụng công nghệ và Internet cho mọi tác vụ và quy trình có thể. Đồng thời, khi hoạt động trên môi trường số, công dân số phải am hiểu pháp luật, nắm được các quy định được phép hay cấm thực hiện.
Tuy vậy, để có những công dân số, chúng ta lại phải quay lại gốc rễ vấn đề, đó chính là giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học. Nhiều ý kiến cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, giáo dục phổ thông có thể đào tạo ra nhân lực chất lượng phục vụ cho sự phát triển kinh tế, xã hội. Điều này đúng, nhưng chưa đủ.
Giáo dục phổ thông chỉ tạo ra “nguồn nhân lực” chứ không phải “nhân lực”. Khoảng cách từ “nguồn nhân lực” tới “nhân lực” còn khá xa. Đó chính là quãng đường học nghề, học đại học, sau đại học, học tập suốt đời nếu mỗi người muốn làm chủ công nghệ, có tri thức và trở thành công dân số, công dân toàn cầu.
Dù là công dân số hay công dân toàn cầu, trong mối quan hệ giữa nguồn lực con người và sự phát triển, không thể không nhắc tới giáo dục và nhân tố người thầy, thưa giáo sư?
Như đã nói ở trên, con người là động lực cho sự phát triển, song giáo dục lại là nền tảng để phát triển con người. Và khi nhắc tới giáo dục, chúng ta không thể bỏ qua vai trò của người thầy.
Khi thế giới bước vào thời đại công nghệ 4.0, thì người thầy phải không ngừng học tập, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ để bắt kịp với thời đại, đáp ứng được những nhu cầu ngày càng cao về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Áp lực chuyển đổi số đang đặt ra với tất cả các ngành, các lĩnh vực, đặc biệt trong ngành giáo dục, điều này càng nên được xem trọng nhiều hơn. Sở dĩ như vậy là do giáo dục là đào tạo con người, con người lại đóng vai trò đổi mới và tạo ra xu thế mà bản thân người thầy không phải là người tiên phong trong xu hướng thì việc trở nên lạc hậu là đương nhiên.
Video đang HOT
Muốn hội nhập và bắt kịp xu hướng thì các trường sư phạm – chiếc nôi đào tạo người thầy cần phải thay đổi trước tiên trong việc ứng dụng và làm chủ công nghệ thông tin, góp phần vào xu thế chuyển đổi số trong ngành giáo dục. Và sau đó, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, giáo viên cũng phải là người dẫn đầu các xu hướng đổi mới, sau đó mới đến các tầng lớp khác trong xã hội.
Giáo viên hiện nay không còn là người truyền thụ kiến thức, mà là người hỗ trợ học sinh hướng dẫn tìm chọn và xử lý thông tin. Vị trí của nhà giáo không phải được xác định bằng sự độc quyền về thông tin và trí thức có tính đẳng cấp, mà bằng trí tuệ và sự từng trải của mình trong quá trình dẫn dắt học sinh tự học.
Người ta đã bắt đầu quan tâm đến câu hỏi của người học đến trường để làm gì nếu không có gì mới hơn sách điện tử. Đương nhiên, chức năng định hướng và dẫn dắt của nhà trường không thay đổi, nhưng không thể thực hiện theo mô hình dạy học cũ. Cần xác định lại vai trò người thầy trong học tập kết nối mạng đó là sáng tạo, phản biện và giáo dục.
Chúng ta thấy rằng, cuộc cách mạng công nghệ 4.0 sẽ đem lại nhiều phương tiện, công cụ, các hệ thống để hỗ trợ giáo viên cũng như cả ngành giáo dục đổi mới phương pháp giảng dạy hiện tại, nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo.
Tuy nhiên, để áp dụng các lợi thế này đòi hỏi giáo viên phải thay đổi nhiều, từ tư tưởng giảng dạy, phải chấp nhận những vấn đề mới, quan điểm mới, có trường hợp sẽ không có đúng sai hoàn toàn. Bên cạnh đó, giáo viên sẽ phải học sử dụng nhiều phần mềm, công cụ mới để thể hiện nội dung giảng dạy.
Cùng với vai trò người thầy, theo giáo sư, bản thân ngành giáo dục cần có những đột phá nào để góp phần bồi dưỡng, phát huy nguồn lực con người một cách hiệu quả?
Người lao động trong xã hội hiện đại không chỉ được nhấn mạnh ở những kỹ năng làm việc đơn thuần, mà còn nhấn mạnh vào năng lực sáng tạo mới. Muốn vậy, giáo dục phải thực sự đổi mới căn bản và toàn diện, phải làm tròn chức năng lĩnh hội tri thức, truyền bá tri thức và sáng tạo ra tri thức mới, đồng thời ứng dụng tri thức vào cuộc sống.
Giáo dục phải áp sát vào yêu cầu phát triển nguồn nhân lực trong kinh tế tri thức, phải nhận được sự quan tâm chu đáo của toàn xã hội. Phải xây dựng chiến lược phát triển giáo dục đi trước và thích ứng với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đất nước.
Trong chiến lược phát triển quốc gia 10 năm tới, chúng ta phải hình dung được vai trò vị trí của giáo dục nằm ở đâu và trách nhiệm như thế nào. Chúng ta không sợ nhanh hay chậm, mà quan trọng phải cùng chung dòng chảy với thế giới. Giáo dục hiện đại phải làm tốt việc đa dạng hóa hoạt động nhằm đánh thức tiềm lực, phát huy tính năng động và khả năng sáng tạo gắn với mục tiêu học tập mang tính cá thể của từng cá nhân, từng nhóm người học.
Ngoài ra, chiến lược giáo dục của Việt Nam giai đoạn tới phải đặt trong bối cảnh giáo dục công dân toàn cầu, tính đến sự cạnh tranh quyết liệt của giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp và phải tính đến việc chuyển giao tri thức không phân biệt quốc gia.
Ngoài giáo dục, một yếu tố khác mà chúng ta thường hay nhắc tới đó chính là văn hóa. Vậy nền tảng văn hóa có vai trò ra sao trong việc khơi dậy, phát huy sức mạnh của nguồn lực con người theo quan điểm của giáo sư?
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhiều lần nhấn mạnh: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” như một khẳng định về vai trò đặc biệt của văn hóa với sự phát triển đất nước, con người Việt Nam.
Ngày nay, Đảng có nhiều chủ trương về phát triển văn hóa, coi “Văn hóa là nền tảng tinh thần của đất nước”, “Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế, xã hội”. Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng cũng đặt mục tiêu phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hoá thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Lịch sử ngàn năm dựng nước và giữ nước đã minh chứng, nếu khơi gợi được giá trị văn hóa, niềm tự hào dân tộc, sự đoàn kết, tự tin của dân tộc, chúng ta sẽ bước đi vững chắc hơn. Vì khi có tự hào dân tộc, chúng ta sẽ nỗ lực để niềm tự hào trở thành hành trang tiến về phía trước. Ngược lại, sẽ không có sự đột phá trong phát triển đất nước.
Hơn nữa, chúng ta đang sống trong một thế giới toàn cầu hóa, nơi sự đa dạng văn hóa đang bị đe dọa, các quốc gia đang có nguy cơ mất bản sắc văn hóa và mất căn tính quốc gia, dẫn đến sự phát triển không bền vững. Không ai mong muốn sự phát triển dù đầy đủ về vật chất, lại không giữ được bản sắc văn hóa riêng. Quốc gia nào cũng kỳ vọng văn hóa được gìn giữ để khẳng định vị thế đất nước mình trong thế giới toàn cầu hóa.
Xã hội học tập phải hướng tới mục tiêu tạo ra các công dân số
Xây dựng xã hội học tập trong giai đoạn 2021-2030 nếu không đặt nặng vấn đề chuyển đổi số thì rất vất vả mới có thể thành công và khó theo kịp sự phát triển của thời đại mới.
Ngày 5/3, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) tổ chức hội thảo về Nhiệm vụ, mục tiêu và giải pháp xây dựng Xã hội học tập giai đoạn 2021-2030. Sự kiện nhằm hướng tới tổng kết 8 năm thực hiện Đề án "Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012-2020" đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 89 năm 2013 (gọi tắt là Đề án 89); đồng thời chuẩn bị cho việc xây dựng đề án mới để phát triển xã hội học tập giai đoạn tiếp theo.
Thứ trưởng Bộ GDĐT Nguyễn Hữu Độ và Phó Chủ tịch Thường trực Trung ương Hội khuyến học Việt Nam Phạm Tất Dong chủ trì hội thảo. Cùng dự có đại diện Vụ GDĐT, Dạy nghề - Ban Tuyên giáo Trung ương; Vụ Khoa giáo - Văn xã của Văn phòng Chính phủ; Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam; các chuyên gia và lãnh đạo trường đại học, cơ sở GDTX, phòng GDTX của một số Sở GDĐT.
Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Hữu Độ chủ trì hội thảo
Xã hội học tập ở Việt Nam đã trở thành một sự nghiệp giáo dục
Phát biểu đề dẫn, GS Phạm Tất Dong cho biết, sau 8 năm triển khai, Đề án "Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012-2020" đã hoàn thành các nhiệm vụ đúng tiến độ và đạt được một số kết quả quan trọng.
Trong đó, kết quả nổi bật nhất là phát triển xã hội học tập ở Việt Nam trở thành một sự nghiệp giáo dục, được đông đảo Bộ, Ban, Ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội từ Trung ương tới địa phương tham gia. Học tập suốt đời được đông đảo tầng lớp nhân dân nhận thức là giải pháp hữu hiệu để có năng lực sống và làm việc trong quốc gia đang từng bước tiếp cận với cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và thích ứng với yêu cầu chuyển đổi số quốc gia.
Mô hình xã hội học tập trên địa bàn hành chính cấp xã đã được định hình và đang trên đà phát triển. Các mô hình học tập của người dân ở cấp xã (gia đình học tập, dòng họ học tập, cộng đồng thôn bản/tổ dân phố học tập... đang phát triển mạnh. Cộng đồng học tập cấp xã theo Thông tư 44/2014/TT-BGDĐT đã có mặt ở hầu hết các tỉnh thành.
Rất nhiều mô hình học nghề, học chuyên môn nghiệp vụ đã được các tổ chức chính trị xã hội sáng tạo nên thành mô hình học tập đa dạng, cơ động và linh hoạt. Nhiều doanh nghiệp, trường đại học, viện nghiên cứu khoa học đã mở ra các khóa học, lớp học cho người lớn, đặc biệt là khóa học trực tuyến... để phát triển xã hội học tập suốt đời.
GS Phạm Tất Dong cho rằng, việc thực hiện Đề án 89 đã góp phần đổi mới, cấu trúc lại hệ thống giáo dục, đưa giáo dục thường xuyên và việc học tập của người lớn thành một hoạt động có tính chiến lược; tập hợp đông đảo và đồng bộ các lực lượng xã hội, lực lượng kinh tế tham gia xây dựng chương trình học tập suốt đời tại nhiều cơ quan, đoàn thể, doanh nghiệp.
Các đại biểu tham dự Hội thảo cũng đồng thuận: Đề án 89 đã góp phần tạo chuyển biến tích cực về nhận thức của các cấp, chính quyền và xã hội về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Công tác phổ cập giáo dục và xóa mù chữ qua đó được củng cố vững chắc với kết quả là cả nước đã hoàn thành xóa mù chữ theo Quyết định 692 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ.
Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, lý luận chính trị cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động cũng từ việc thực hiện Đề án 89 được tăng cường mạnh mẽ hơn. Mạng lưới cơ sở GDTX được củng cố và phát triển nhanh chóng về số lượng, đa dạng về mô hình, hoạt động, mang lại hiệu quả thiết thực, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của người dân...
Với những thành quả đã đạt được đó, cũng như nhu cầu học tập ngày càng tăng của người dân và thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển xã hội học tập, đại biểu tham dự Hội thảo khẳng định: cần thiết xây dựng và ban hành đề án mới để tiếp tục hình thành và phát triển xã hội học tập giai đoạn 2021-2030.
Xây dựng giáo dục số để tạo ra các công dân số
Từ đánh giá những điểm đạt được, điểm còn hạn chế của việc thực hiện Đề án, hội thảo tập trung thảo luận về nhiệm vụ, mục tiêu và giải pháp xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021-2030. Trong đó, cụm từ "giáo dục số", "chuyển đổi số", "công dân số" được nhắc lại nhiều lần, nhấn mạnh đây là nhiệm vụ, mục tiêu mà xã hội học tập ở giai đoạn tới cần đạt được, để đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên số.
"Một trong những thành quả Đề án cần đạt được trong giai đoạn tới là việc hình thành mô hình công dân học tập có những năng lực cần thiết để xây dựng nền kinh tế tri thức, đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của nền sản xuất kỹ thuật số và hội nhập quốc tế", GS Phạm Tất Dong nói.
Xã hội học tập phải hướng tới mục tiêu tạo ra các công dân số
Phó chủ tịch thường trực trung ương Hội khuyến học Việt cũng cho rằng, việc xây dựng hệ thống giáo dục mở với những cơ chế, chính sách vận hành và hành lang pháp lý đảm bảo cho mọi công dân được thụ hưởng giáo dục, có được những cơ hội và điều kiện học tập suốt đời; xây dựng hệ thống trường lớp, cơ sở GDĐT hoạt động trong môi trường số, góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số quốc gia và hội nhập quốc tế... là thành quả mà xã hội học tập trong giai đoạn tiếp theo phải đạt được.
Đồng quan điểm, TS Nguyễn Đắc Hưng - Vụ trưởng Vụ GDĐT, Dạy nghề - Ban Tuyên giáo Trung ương cho rằng, việc xây dựng xã hội học tập trong giai đoạn 2021-2030 nếu không đặt nặng vấn đề chuyển đổi số mà tiếp tục như giai đoạn trước là tập trung đầu tư cơ sở vật chất, thì rất vất vả mới có thể thành công và khó theo kịp sự phát triển của thời đại mới. Xã hội học tập tới đây phải hướng tới mục tiêu tạo ra các công dân số với đầy đủ năng lực, kỹ năng số, phục vụ việc phát triển bản thân và cộng đồng, đất nước.
Muốn làm được điều này thì một yếu tố quan trọng cần có là cơ chế chính sách và tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tham gia hỗ trợ đào tạo kỹ năng số cho công dân; huy động trí tuệ và sự đóng góp từ nguồn xã hội hóa để phát triển chuyển đổi số trong GDĐT.
Lắng nghe các ý kiến góp ý, Thứ trưởng Nguyễn Hữu Độ cho biết: "có rất nhiều điều bổ ích mà Bộ GDĐT tiếp thu được từ hội thảo này".
Đề án 89 có 7 nhóm nhiệm vụ được giao cho 4 Bộ ngành; UBND các tỉnh/thành phố; các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp; Hội Khuyến học Việt Nam và các Hội có liên quan. Đây là Đề án cấp Chính phủ nhưng Bộ GDĐT được ủy quyền giao nhiệm vụ chủ trì tổng kết kết quả thực hiện lộ trình 8 năm triển khai.
Từ việc tổng kết này, nhiệm vụ quan trọng, cũng là sản phẩm cuối cùng cần đạt được là xây dựng được Đề án mới về xã hội học tập trong giai đoạn 2021-2030 để phù hợp với bối cảnh và yêu cầu của thời đại mới.
Từ ý kiến của đại biểu, hội thảo thống nhất một trong những mục tiêu quan trọng mà Đề án của giai đoạn 2021-2030 cần hướng tới là xây dựng xã hội học tập trong điều kiện chuyển đổi số.
Ở xã hội học tập đó, mỗi người dân sẽ là một công dân học tập, công dân toàn cầu. Kế thừa những thành quả đạt được của giai đoạn trước, Việt Nam sẽ học hỏi thêm kinh nghiệm của thế giới trong xây dựng mạng lưới "thành phố học tập toàn cầu", xây dựng khung năng lực số, hướng tới một xã hội học tập trong điều kiện chuyển đổi số, hội nhập toàn cầu.
Để xây dựng được xã hội học tập, cần có sự vào cuộc đồng bộ, sát sao, phối hợp chặt chẽ của các Bộ ngành, địa phương, tổ chức kinh tế/xã hội và cả hệ thống chính trị.
Từng người dân và mỗi cá nhân trong hệ thống chính trị cũng cần nhận thức rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong xây dựng và phát triển xã hội học tập. Đích đến cuối cùng của xã hội học tập ấy là tạo công bằng, xóa rào cản và mở rộng cơ hội để mọi người dân được tiếp cận giáo dục và học tập suốt đời.
Đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT bước đầu đạt hiệu quả Dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh vai trò của giáo dục và đào tạo và nội dung này cũng nhận được sự quan tâm, góp ý của nhiều chuyên gia, nhà khoa học. GD-ĐT tiếp tục được đổi mới và có bước phát triển. Ảnh minh họa/INT Dự thảo văn kiện Đại hội XIII của...