Mối liên quan giữa đái tháo đường và tăng huyết áp
Tỷ lệ tăng huyết áp ở người đái tháo đường type 2 tăng 2,5 lần so với người không mắc bệnh này. Ngược lại, khoảng 50% số người đái tháo đường đồng thời bị tăng huyết áp.
Theo TS.BS Phạm Trần Linh – Trưởng Khoa Điều trị trong ngày, Viện Tim mạch Quốc gia, Bệnh viện Bạch Mai, đái tháo đường và cao huyết áp là hai bệnh lý riêng biệt, tuy nhiên chúng có mối liên hệ mật thiết lẫn nhau.
Thống kê cho thấy, tỷ lệ tăng huyết áp ở người đái tháo đường type 2 tăng 2,5 lần so với người không mắc bệnh này. Ngược lại, khoảng 50% số người đái tháo đường đồng thời bị tăng huyết áp (trong đó, 25% ở người trẻ và 75% người lớn tuổi).
Nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch ở người đái tháo đường bị tăng huyết áp gấp đôi so với người đái tháo đường có chỉ số huyết áp bình thường. Và ngược lại đái tháo đường cũng làm cho tăng huyết áp trở nên khó điều trị hơn.
Bệnh nhân đột quỵ do biến chứng tăng huyết áp.
Tăng huyết áp khiến đường huyết tăng cao, làm bệnh nhân đái tháo đường bị biến chứng nhanh hơn và gia tăng tỷ lệ tử vong. Nguyên nhân do tăng huyết áp cản trở dòng máu được lưu thông tới thận (gây tác động tới đái tháo đường); gây biến chứng võng mạc, mù lòa, mắc bệnh ký ở thận.
Bác sĩ Phạm Trần Linh cho biết, phương pháp điều trị, kiểm soát tăng huyết áp và đái tháo đường (nhất là đái tháo đường type 2) có nhiều nét tương đồng, bổ trợ lẫn nhau. Vậy nên, người bị tăng huyết áp lẫn đái tháo đường không nên vội bi quan. Chỉ cần nghiêm túc tuân thủ chỉ dẫn của bác sĩ, bạn sẽ dễ dàng kiểm soát 2 bệnh này, đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống cho chính bản thân mình.
Video đang HOT
- Chế độ dinh dưỡng lành mạnh: Điều quan trọng với người mắc 2 bệnh trên là trong chế độ ăn cần lưu ý một số điểm như: tăng khẩu phần rau củ quả trong bữa ăn hằng ngày, chọn các sản phẩm nguyên hạt, ít béo, hạn chế sử dụng muối và đường trong nấu nướng, tinh bột cũng sẽ chuyển hóa thành đường trong cơ thể, thế nên cần cân bằng lượng tinh bột giữa các bữa ăn.
- Tích cực rèn luyện thể lực: Thường xuyên vận động thân thể và rèn luyện thể lực là lựa chọn hàng đầu cho bệnh nhân tăng huyết áp lẫn đái tháo đường vì vừa giảm lượng glucose huyết trong cơ thể, vừa cân bằng huyết áp trong giới hạn cho phép. Nên hướng đến các bài tập có cường độ trung bình như đi bộ nhanh, đạp xe, bơi lội,… trong 30-40 phút, 4-5 lần mỗi tuần.
- Dùng thuốc đều đặn theo chỉ định của bác sĩ: Bên cạnh phương pháp thay đổi lối sống, trong một số trường hợp, bác sĩ có thể yêu cầu dùng thêm thuốc điều trị. Nếu mắc cả 2 bệnh trên, nên đến bác sĩ để được tư vấn, chỉ định thuốc phù hợp nhằm đạt hiệu quả điều trị cao nhất. Khi có chỉ định, người bệnh cần uống thuốc đều đặn, thường xuyên hàng ngày, không được tự ý bỏ thuốc giữa chừng, khiến huyết áp và đường huyết tăng vọt sẽ rất nguy hiểm./.
Dinh dưỡng hợp lý phòng bệnh không lây nhiễm
Dinh dưỡng không lành mạnh là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây các bệnh mạn tính không lây nhiễm như béo phì, đái tháo đường, bệnh tim mạch, tăng huyết áp, đột quỵ, ung thư...
Việc thiếu hoặc thừa dinh dưỡng đều tác động tiêu cực tới sự phát triển bệnh, và sự phối hợp cả 2 yếu tố thì thậm chí còn tồi tệ hơn. Do vậy, đảm bảo chế độ dinh dưỡng lành mạnh, hợp lý và an toàntrong mỗi bữa ăn hàng ngày có thể dự phòng mắc các bệnh mạn tính không lây.
Bữa ăn hàng ngày nên có sự cân đối giữa đạm động vật và đạm thực vật.
Ăn đa dạng các loại thực phẩm
Cơ thể chúng ta hàng ngày cần rất nhiều chất dinh dưỡng. Không có một thức ăn nào là toàn diện và có đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể. Do mỗi loại thức ăn có chứa một số loại chất dinh dưỡng với tỷ lệ khác nhau cho nên bữa ăn hàng ngày cần đa dạng (ít nhất có 5 trong 8 nhóm thực phẩm, trong đó nhóm chất béo là bắt buộc) và phối hợp nhiều loại thực phẩm (10-15 loại thực phẩm). Các chất dinh dưỡng của các loại thực phẩm này sẽ bổ sung cho nhau và giá trị dinh dưỡng của bữa ăn sẽ tăng lên:
Lương thực: Gạo, ngô, khoai, sắn là thức ăn cơ bản và cũng là nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu cho cơ thể. Ngoài ra, ngũ cốc còn là nguồn cung cấp nhiều vitamin nhóm B, nhất là vitamin B 1 . Vitamin B 1 thường nằm ở lớp vỏ ngoài của hạt gạo, nếu gạo xay sát quá kỹ sẽ làm vitamin này giảm đi đáng kể.
Nhóm hạt các loại: Đậu, đỗ, vừng, lạc là nguồn cung cấp chất đạm thực vật cho cơ thể.
Nhóm sữa và các sản phẩm từ sữa là nguồn cung cấp chất đạm động vật và canxi quan trọng cho cơ thể.
Nhóm thịt các loại, cá và hải sản cung cấp các acid amin cần thiết mà cơ thể người không tự tổng hợp được. Các thực phẩm này thường có đủ các acid amin cần thiết ở tỷ lệ cân đối.
Nhóm trứng và các sản phẩm của trứng là nguồn cung cấp chất đạm động vật và nhiều chất dinh dưỡng quý cho cơ thể.
Nhóm củ quả màu vàng, da cam, màu đỏ như cà rốt, bí ngô, gấc, cà chua hoặc rau tươi có màu xanh thẫm là nguồn cung cấp vitamin và chất khoáng chủ yếu cho cơ thể. Các loại rau, quả có màu vàng đỏ có nhiều -caroten (tiền vitamin A). Các loại rau có màu xanh đậm như rau ngót, rau muống, rau dền, rau đay có nhiều vitamin C, sắt và canxi. Cần lưu ý là vitamin C sẽ bị mất khi rau bị dập nát, vì thế nên sử dụng rau tươi, nấu xong ăn ngay là cách tốt nhất để bảo toàn lượng vitamin C trong rau. Rau củ còn là nguồn cung cấp chất xơ quý, có tác dụng chống táo bón và phòng xơ vữa động mạch.
Nhóm rau củ quả khác như su hào, củ cải cung cấp vitamin, chất khoáng và chất xơ.
Nhóm dầu, mỡ các loại là nguồn cung cấp năng lượng và các acid béo cần thiết cho cơ thể. Nên ăn phối hợp cả dầu và mỡ.
Kết hợp nguồn chất đạm, chất béo động vật và thực vật
Có 2 nguồn cung cấp chất đạm cho cơ thể là chất đạm động vật (thịt, cá, trứng, sữa, tôm, cua, hải sản)..và chất đạm thực vật (đậu, đỗ...). Bữa ăn gia đình nên có sự cân đối giữa đạm động vật và đạm thực vật. Tỷ lệ đạm động vật tối thiểu là 1/3 hoặc tốt hơn là 1/2 đạm tổng số.
Chất béo là dung môi cho các vitamin tan trong dầu như A, D, E, K. Chất béo tham gia trong cấu trúc màng tế bào và điều hòa các hoạt động chức phận của cơ thể như màng tế bào, nội tạng. Trong khẩu phần ăn nên có sự phối hợp cả dầu thực vật và mỡ động vật ở tỷ lệ cân đối. Nên ăn vừng lạc. Không nên ăn các thức ăn nhanh, thức ăn chế biến sẵn, thức ăn có lượng đường cao.
Phân chia hợp lý các bữa ăn trong ngày
Số bữa ăn trong ngày phụ thuộc lứa tuổi, tình trạng sức khỏe, mức độ lao động. Với người trưởng thành khỏe mạnh cần ăn 3 bữa/ngày, trẻ em ăn 4-5 bữa/ ngày. Nên ăn ít nhất 3 bữa, không nên bỏ bữa ăn sáng, nghiên cứu cho thấy bỏ bữa sáng tăng nguy cơ thừa cân, béo phì. Ăn bữa trưa nhiều nhất, bữa tối ăn ít nhất.
Không nên ăn mặn
Muối ăn là loại gia vị được sử dụng hàng ngày, nhưng thực ra cơ thể chỉ cần một lượng rất ít, nếu ăn nhiều muối sẽ tăng nguy cơ mắc bệnh tăng huyết áp và bệnh mạn tính không lây khác. Trẻ em dưới 5 tuổi sử dụng dưới 3g/ngày, trẻ em từ 6-11 tuổi sử dụng dưới 4g/ngày, người trưởng thành sử dụng dưới 5g/ngày. Nên sử dụng muối iod trong chế biến món ăn.
Người trẻ không tin mình có thể mắc bệnh 'kẻ giết người thầm lặng' "Bệnh đái tháo đường (ĐTĐ), tăng huyết áp (THA) đã trẻ hoá rất nhiều nhưng nhiều bệnh nhân tuổi trẻ, trung niên không chấp nhận và thừa nhận mình bị bệnh", TS. BS Nguyễn Trung Anh, GĐ BV Lão khoa Trung ương nói. GĐ BV Lão khoa Trung ương Nguyễn Trung Anh Hai 'kẻ giết người thầm lặng' TS. BS Nguyễn Trung Anh,...