Làn sóng thứ hai của đại dịch cúm Tây Ban Nha mang tính hủy diệt
Làn sóng đầu tiên của dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918 thực ra không đặc biệt nguy hiểm. Số ca tử vong tăng vọt chỉ ập đến khi dịch bệnh quay trở lại với làn sóng thứ hai.
Một trung tâm điều trị bệnh nhân cúm Tây Ban Nha tại Mỹ năm 1918. Ảnh: Getty Images
Quy mô khủng khiếp của đại dịch cúm năm 1918, còn gọi là “cúm Tây Ban Nha”, rất khó để nắm được hết. Virus cúm đã lây nhiễm 500 triệu người trên toàn cầu và giết chết ước tính 20 triệu – 50 triệu sinh mạng, nhiều hơn toàn bộ số binh sĩ và thường dân thiệt mạng trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Mặc dù đại dịch toàn cầu này kéo dài trong 2 năm, con số tử vong lớn nhất đã dồn vào 3 tháng đỉnh dịch trong mùa Thu năm 1918. Các nhà sử học ngày nay tin rằng, mức độ nghiêm trọng của làn sóng thứ hai trong dịch cúm Tây Ban Nha là do virus đã đột biến lây lan dữ dội qua hoạt động của các đội quân thời chiến.
Khi cúm Tây Ban Nha xuất hiện lần đầu tiên vào đầu tháng 3/1918, nó mang theo mọi dấu hiệu của bệnh cúm mùa, mặc dù là một chủng rất dễ lây lan và độc lực cao. Một trong những trường hợp mắc bệnh được ghi nhận đầu tiên là Albert Gitchell, một đầu bếp của quân đội Mỹ tại căn cứ Funston, bang Kansas. Anh này nhập viện khi sốt 40 độ C. Virus cúm nhanh chóng lan sang các bộ phận khác của căn cứ, nơi có tới 54.000 lính đồn trú. Tới cuối tháng 3 năm đó, 1.100 binh sĩ Mỹ phải nhập viện và 38 người tử vong do viêm phổi.
Nhân viên Chữ thập đỏ chuẩn bị cáng để vận chuyển bệnh nhân cúm ở Mỹ. Ảnh: Thư viện Quốc hội
Khi quân đội Mỹ được triển khai hàng loạt để tham chiến tại châu Âu, họ đã mang theo cúm Tây Ban Nha qua đại dương. Trong suốt tháng 4 và tháng 5/1918, virus lan nhanh như cháy rừng qua Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Italy.
Ước tính 3/4 quân đội Pháp và một nửa binh sĩ Anh bị nhiễm cúm vào mùa Xuân năm 1918. Tuy nhiên, làn sóng lây nhiễm đầu tiên của virus cúm Tây Ban Nha không quá nghiêm trọng và số ca tử vong không quá cao. Người bệnh bị các triệu chứng như sốt cao, mệt mỏi thường chỉ trong 3 ngày. Theo dữ liệu y tế công cộng còn hạn chế vào thời điểm đó, tỷ lệ tử vong của dịch tương tự như cúm mùa.
Cái tên “oan” cho Tây Ban Nha
Chính trong quãng thời gian này, dịch cúm Tây Ban Nha đã bị hiểu sai. Tây Ban Nha là quốc gia trung lập trong Thế chiến I và không giống như các nước láng giềng châu Âu, họ không áp đặt kiểm duyệt báo chí thời chiến.
Ở Pháp, Anh, Mỹ, các tờ báo không được phép đưa tin về bất cứ điều gì có thể gây ảnh hưởng tới những nỗ lực thời chiến, bao gồm cả tin tức về một loại virus đang càn quét qua quân đội các nước. Vì thế các nhà báo Tây Ban Nha là nhóm duy nhất trên thế giới đưa tin về dịch cúm lan rộng ở nước này vào mùa Xuân năm 1918. Đó là lý do đại dịch được gọi là “cúm Tây Ban Nha”.
Số ca lây nhiễm cúm Tây Ban Nha giảm xuống trong mùa Hè năm 1918 và vào tháng 8, mọi người đều hy vọng dịch bệnh đã qua đỉnh điểm. Nhưng đó chỉ là khoảng lặng trước cơn bão. Đâu đó ở châu Âu, một chủng virus cúm Tây Ban Nha đột biến đã xuất hiện, có khả năng giết chết cả những thanh niên khỏe mạnh chỉ trong vòng 24 giờ kể từ khi xuất hiện những triệu chứng đầu tiên.
Một bệnh viện dã chiến ở Mỹ trong dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918. Ảnh: Getty Images
Làn sóng thứ hai
Cuối tháng 8/1918, những con tàu chiến khởi hành từ cảng Plymouth, Anh, chở theo những binh sĩ không hay biết mình đã nhiễm chủng mới của virus cúm Tây Ban Nha. Khi những con tàu này cập bến tại nhiều thành phố như Brest ở Pháp, Boston – Mỹ, hay Freetown ở Tây Phi, làn sóng thứ hai của đại dịch cúm toàn cầu bắt đầu bùng phát.
“Hoạt động di chuyển nhanh của các binh sĩ trên toàn cầu là nhân tố lây lan dịch bệnh quan trọng”, James Harris, nhà sử học tại Đại học bang Ohio (Mỹ), chuyên nghiên cứu về bệnh truyền nhiễm và Thế chiến I, cho biết. “Toàn bộ tổ hợp công nghiêp quân sự, gồm rất nhiều con người và trang thiết bị trong những điều kiện đông đúc chắc chắn là yếu tố góp phần lớn khiến đại dịch lây lan rộng”.
Từ tháng 9 đến tháng 11/1918, tỉ lệ tử vong do cúm Tây Ban Nha tăng vọt. Riêng tại Mỹ, 195.000 người đã chết vì virus cúm này chỉ trong tháng 10/1918. Và không giống như cúm mùa thông thường, chủ yếu tấn công người già và trẻ em, làn sóng thứ hai của dịch cúm Tây Ban Nha mang “đường cong W”, với con số tử vong cao ở người già, trẻ em và cũng cao ở cả những người khỏe mạnh trong độ tuổi 25-35.
Cúm Tây Ban Nha hạ gục cả những người đàn ông khỏe mạnh. Ảnh: Getty Images
“Cơn bão cytokine”
Điều gây khiếp sợ không chỉ là cái chết với hàng triệu đàn ông và phụ nữ trẻ khỏe, mà còn ở cách mà họ bị virus quật ngã. Bị sốt cao, xuất huyết mũi và viêm phổi, cuối cùng bệnh nhân bị chết đuối trong hai lá phổi ngập đầy dịch lỏng của mình.
Mãi tới vài thập kỷ sau, các nhà khoa học mới có thể giải thích được hiện tượng được gọi là “cơn bão cytokine” này. Khi cơ thể người bệnh đang bị virus tấn công, hệ miễn dịch sẽ gửi đi các protein thông tin, gọi là cytokine để thúc đẩy quá trình gây viêm có ích. Nhưng một số chủng cúm, đặc biệt là chủng “cúm Tây Ban Nha” đột biến, có thể gây ra phản ứng miễn dịch thái quá một cách nguy hiểm ở những người khỏe mạnh. Trong những trường hợp đó, cơ thể bệnh nhân bị quá tải bởi các cytokine, dẫn đến viêm nặng và tích tụ chất lỏng trong phổi.
Video đang HOT
Các bác sĩ quân đội Anh tiến hành khám nghiệm tử thi những người lính tử vong trong làn sóng dịch thứ hai, đã mô tả những tổn thương ghê gớm ở phổi bệnh nhân cúm giống như nạn nhân của một cuộc chiến tranh hóa học.
Một phụ nữ thở qua khẩu trang nối với một loại máy lọc không khí trong đại dịch cúm 1918. Ảnh: Getty Images
Thiếu biện pháp cách ly
Nhà nghiên cứu Harris tin rằng sự lây lan nhanh chóng của làn sóng thứ hai dịch “cúm Tây Ban Nha” vào mùa Thu năm 1918 ít nhất cũng có phần lỗi của giới chức y tế cộng đồng đã không muốn áp dụng các biện pháp cách ly thời chiến.
Chẳng hạn ở Anh, một quan chức chính phủ tên Arthu Newsholme biết rõ rằng việc phong tỏa dân sự nghiêm ngặt là cách tốt nhất để đối phó với dịch, nhưng ông ta lại không muốn các nỗ lực chiến tranh bi tê liệt khi các công nhân nhà máy đạn dược bị cách ly ở nhà.
Còn ở Mỹ, các phản ứng về y tế công cộng bị cản trở bởi tình trạng thiếu điều dưỡng nghiêm trọng khi hàng ngàn y tá đã được triển khai đến các doanh trại quân đội và tiền tuyến. Sự thiếu hụt càng tệ hơn do Hội Chữ thập đỏ Mỹ từ chối huy động các y tá gốc Phi, cho đến tận khi giai đoạn chết chóc nhất của đại dịch đã qua.
Thiếu công cụ phát triển vắc-xin
Tuy nhiên một trong những lý do chính khiến bệnh cúm Tây Ban Nha cướp đi quá nhiều mạng sống là vì thế giới không có đủ công cụ khoa học để phát triển một loại vắc-xin ngừa virus này.
Cho đến tận những năm 1930, kính hiển vi vẫn không thể nhìn thấy thứ gì nhỏ khó tin như virus. Thay vào đó, các chuyên gia y tế hàng đầu vào năm 1918 tin rằng dịch cúm này là do một loại vi khuẩn có biệt danh là “trực khuẩn Pfeiffer” gây ra.
Người dân Mỹ đeo khẩu trang phòng dịch cúm 1918. Ảnh: Getty Images
Sau trận dịch cúm bùng phát vào năm 1890, một bác sĩ người Đức tên là Richard Pfeiffer đã phát hiện ra rằng tất cả các bệnh nhân của ông đều mang một chủng vi khuẩn đặc biệt mà ông gọi là H.influenzae (sau này được đặt biệt danh là “trực khuẩn Pfeiffer”). Khi đại dịch cúm Tây Ban Nha tấn công, các nhà khoa học đã có ý định tìm biện pháp tiêu diệt trực khuẩn Pfeiffer. Hàng triệu USD được đầu tư vào các phòng thí nghiệm hiện đại để phát triển kỹ thuật xét nghiệm và điều trị H.influenzae, nhưng tất cả đều vô ích.
Đến tháng 12/1918, làn sóng thứ hai chết chóc của dịch cúm Tây Ban Nha cuối cùng đã qua, nhưng đại dịch thì còn lâu mới kết thúc. Làn sóng thứ ba bùng phát ở Australia vào tháng 1/1919, trước khi quay trở lại châu Âu và Mỹ. Người ta tin rằng Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson cũng đã nhiễm virus khi tham gia các cuộc đàm phán hòa bình hậu Thế chiến ở Paris vào tháng 4/1919.
Tỷ lệ tử vong của làn sóng thứ ba cũng cao như làn sóng thứ hai, nhưng việc chiến tranh kết thúc vào tháng 11/1918 đã loại bỏ những điều kiện cho phép dịch bệnh lây lan rộng và nhanh chóng. Con số tử vong toàn cầu từ làn sóng thứ ba mặc dù vẫn lên tới hàng triệu, cũng không thể so sánh với những tổn thất kinh hoàng trong làn sóng thứ hai.
Mùa hè có 2 loại cảm ai cũng dễ mắc, bác sỹ chỉ cách thoát khỏi sự khó chịu dai dẳng khi bị cảm
Thời điểm này đã có rất nhiều người bị mắc bệnh cảm. Theo các bác sĩ, cảm lạnh có thể chữa theo cách dân gian, nhưng cảm nóng thì chống chỉ định với xông, dùng thuốc gì cũng cần có y lệnh. Nếu không chữa sẽ mệt mỏi, đau nhức khắp người, và có thể sốt, suy nhược cơ thể...
Theo PGS - BS Phạm Thị Bích Đào (Bệnh viện Đại học Y Hà Nội), bệnh cảm cúm mùa hè có thể mắc, nhưng rất hiếm bởi vi rút cảm cúm đa phần chỉ hoạt động mùa đông. Còn mùa hè chủ yếu người dân mắc cảm lạnh, cảm nóng. Có thể phân biệt như sau:
Cảm lạnh
Phần lớn do tác động của nhiệt độ (như chênh lệch nhiệt độ trong/ngoài phòng, thay đổi nhiệt độ khi đi bơi về, đi ngoài nắng về, đang ở chỗ nóng đi vào lạnh... ). Bệnh phát tác đầu tiên ở vùng họng gây viêm nhiễm, khó chịu (như vướng họng, khô họng, rát họng, đau họng...) kéo dài vài ngày thì tự hết. Nếu bội nhiễm vi trùng sẽ gia tăng đau họng, khi nuốt đau nhói lan lên tai...). Người có sức miễn dịch kém, người có bệnh nền cơ thể không điều tiết kịp với thời tiết thì vi rút càng có cơ hội xâm nhập gây bệnh.
Dính cảm mùa hè rất mệt mỏi, khó chịu. Ảnh minh họa.
Dấu hiệu nữa là chảy mũi dịch loãng, trắng trong, nếu không chữa trị ngay thì dịch dần trắng đục, nhầy đặc hơn và phải xì mũi mới ra được. Đa số nước mũi chảy phía trước, một số ít nước mũi chảy ngược ra sau họng gây bội nhiễm khiến dịch mũi xanh đặc, vàng, nghẹt mũi (có thể nghẹt 1 bên, khi nằm nghẹt nhiều hơn, và dịch mũi càng đặc thì nghẹt mũi càng nhiều).
Dính cảm mùa hè thân nhiệt sẽ không ổn định, ớn lạnh, hoặc rét run, nhức đầu, ù tai, chóng mặt, hoa mắt, hắt hơi, sổ mũi, ho, khàn tiếng, buồn nôn... Các biểu hiện lâm sàng thường ở đường hô hấp trên nên khá nhiều người chủ quan với bệnh, tới khi vào viện thường đã biến chứng gây nguy hiểm cho phế quản, thậm chí viêm phổi, suy hô hấp.
Cảm nóng
Cảm nóng do nền nhiệt môi trường quá nóng, đi ngoài đường gặp nhiệt độ cao... khiến cơ thể không điều tiết kịp thời được sẽ sinh bệnh. Các triệu chứng hay gặp là rối loạn thần kinh trung ương (đau đầu, rối loạn ý thức, co giật, hôn mê), sốt cao, da khô, đỏ, nóng, không tiết mồ hôi do mất nước cơ thể. Nặng hơn thì tim đập nhanh, huyết áp hạ, tiểu ít, rối loạn chức năng gan, nhịp thở không đều...
Dưới cái nắng hầm hập trên 40 độ C ngoài đường lượng nước trong cơ thể sẽ bị "bốc hơi" nhanh qua mồ hôi (bốc hơi cả nước và muối, đường, khoáng...) gây cảm nóng. Phần lớn cơ thể bị mất nước nhưng không được bù nước đúng cách khiến người bệnh choáng váng, mệt mỏi, dễ gây sốt, thậm chí bị say nắng, nhức đầu, khó thở...
Không nên tự điều trị cảm nóng ở nhà. Ảnh minh họa.
Không nên tự điều trị cảm nóng ở nhà
Theo PGS. BS Phạm Thị Bích Đào, 2 chứng bệnh cảm nóng, cảm lạnh có chỉ định điều trị khác nhau.
Cảm lạnh có thể xông các lá thuốc và dùng các phương pháp dân gian chữa trị tại nhà.
Cảm nóng thì chống chỉ định xông lá thuốc.
Để phân biệt cảm lạnh, cảm nóng trước hết bác sĩ sẽ hỏi người bệnh các yếu tố khởi điểm đầu tiên để xác định. Nếu đang đi ngoài đường, làm việc ngoài trời, vui chơi ngoài nắng, đi du lịch... mà tự nhiên thấy khó chịu, mệt mỏi, thở dốc, đau họng... thì cần nghĩ là đã mắc cảm nóng.
Bị cảm nóng có thể chữa ở nhà nếu triệu chứng nhẹ. Nhưng nếu cảm nóng chuyển sang sốc nhiệt (nhiệt độ cơ thể trên 40 độ C, da nóng, khô, toát mồ hôi, kèm theo mệt, đau đầu, khó thở, đỏ mặt, mửa, tiêu chảy, rối loạn nhịp tim, hạ huyết áp, khó thở, suy hô hấp...) thì cần đưa bệnh nhân tới cơ sở y tế ngay kẻo ảnh hưởng nguy hiểm tới sức khỏe.
Cơ thể rất nhạy cảm với nhiệt độ, vì vậy nếu đang ở môi trường nóng mà thấy nhịp tim thay đổi (như đập nhanh), khó chịu, vã mồ hôi, chảy nước mũi... thì nên tìm ngay chỗ râm mắt nghỉ, lau mồ hôi để giảm nhiệt độ qua da.
Nếu có Osezol thì cần uống ngay theo đúng tỉ lệ để bù điện giải. Nếu thấy cơ thể ổn định trở lại thì không sao. Nhưng nếu có cảm giác tim nhanh và mệt hơn thì phải sớm vào viện.
Nếu dùng bất kỳ thuốc gì cũng phải có ý kiến bác sĩ, không tự điều trị cảm nóng ở nhà.
Đến bệnh viện ngay khi có sốt cao, lơ mơ... Ảnh minh họa.
Những lưu ý đối với người bệnh
Khi bị cảm lạnh, cảm nóng người nhà cần chăm sóc người bệnh và cho uống thuốc đầy đủ, đúng liều, đúng loại theo chỉ dẫn của bác sĩ. Sau 3-5 ngày các triệu chứng sẽ thuyên giảm dần và khỏi hẳn.
Cần chủ động cách ly người bệnh với người lành cả trong nhà và cộng đồng, nhất là với nững người có sức đề kháng yếu và dễ lây nhiễm cúm như người già, trẻ em, người có sức khỏe không ổn định.
Bản thân người bệnh ra khỏi nhà nên đeo khẩu trang y tế, che miệng, mũi khi ho, hắt hơi, dùng giấy để ngăn các chất tiết hô hấp bắn ra để tránh lây bệnh cho người khác. Ngoài ra cần:
- Nghỉ ngơi, thư giãn ở những nơi thoáng khí, tránh gió, tránh nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp. Không nên nằm phòng máy lạnh vì sẽ khiến bệnh cảm cúm khó thuyên giảm và làm cho các triệu chứng khan cổ, khàn tiếng trầm trọng thêm.
- Uống thuốc hạ nhiệt (như paracetamol, cảm xuyên hương...), vitamin C liều cao để tăng sức đề kháng theo y lệnh của bác sĩ.
- Hàng ngày rửa mũi, súc họng bằng nước muối sinh lý; ăn thực phẩm lỏng, ấm nóng, dễ tiêu, uống nhiều nước (Oresol, nước quả tươi, cháo giải cảm, nước chanh tươi ấm pha mật ong...), nhất là với người cao tuổi và trẻ em.
- Sau 3-5 ngày bệnh không thuyên giảm, hoặc tái sốt thì phải đến cơ sở y tế ngay vì có thể đã bị bội nhiễm vi khuẩn và các biến chứng khác.
Quan trọng là mùa hè nếu phải làm việc ở môi trường nóng, hay phải đi dưới trời nắng nóng cần đội mũ che chắn kĩ càng, và luôn mang theo nước bên mình để bù nước. Không nên để khát mới tu cả bình nước, như thế không hề tốt cho sức khỏe. Tốt nhất là uống nước từ từ, từng ngụm nhỏ, và tự giác khi không khát cũng uống.
Nếu bị sốt hãy bình tĩnh chườm mát, uống Oresol bù nước (người ra nhiều mồ hôi thì pha dung dịch Oresol đúng tỷ lệ để dùng thay thế nước lọc, bồi phụ lượng nước, muối khoáng, đường đã mất cho cơ thể), hoặc dùng nước chanh tươi pha với một nhúm muối để giúp cơ thể sớm hồi sức.
Nếu sốt 38,5 độ C thì uống thuốc Paracetamol (liều 15/kg cân nặng từ 4 - 6 giờ uống 1 lần khi trẻ sốt 38,5 độ trở lên). Khi thấy hạ sốt thì tiếp tục theo dõi ở nhà. Nhưng nếu vẫn sốt và tăng nhiệt thì cần sớm đưa tới cơ sở y tế gần nhất.
Không nên thấy sốt cao mà đi cấp cứu giữa trưa nắng, bởi thân nhiệt đang cao cộng với nền nhiệt ngoài trời lên rất cao (như đợt nắng nóng vừa qua ngoài trời cao tới hơn 60 độ C) càng làm bệnh nhân sốt cao hơn. Hãy bình tĩnh hạ nhiệt rồi hãy đưa bệnh nhân đi viện. Nếu bệnh nhân sốt cao bị lơ mơ, bứt dứt... buộc phải đi cấp cứu giữa trưa nắng thì nên gọi taxi, hoặc che nắng kỹ càng cho bệnh nhân.
Mùa hè tăng cường ăn rau tươi sống để đưa nhiều vitamin vào cơ thể. Ảnh minh họa.
Cách phòng ngừa
Cách phòng ngừa tốt nhất là giữ vệ sinh tốt, khử trùng các bề mặt... Vi rút bệnh cảm mùa hè thích nơi khô ráo, vì vậy cần giữ thông thoáng, vệ sinh nhà cửa, phòng ốc sạch sẽ, để nhiệt độ phòng phù hợp (không chênh quá với môi trường bên ngoài quá 5 độ C).
- Tăng cường sức khỏe bằng nghỉ ngơi, ăn uống, tập thể dục và có cuộc sống lành mạnh để không mắc bệnh.
- Nếu có điều kiện thì trồng cây xanh quanh nhà giúp không gian sống bớt nóng bức.
- Uống thật nhiều nước (2 lít/ngày và nên uống nước ấm) để thông mũi và bù lại lượng nước mất do nắng nóng và do bị sốt.
- Không nên dùng quạt quá lâu để tránh mất nước.
- Tắm đúng cách, không ngâm nước lâu (có thể tắm 2 lần/ngày, mỗi lần 15-20 phút vào mùa hè), khi tắm không nên dội nước thẳng từ đầu xuống chân. Cách tắm đúng là dội nước vào hai chân, vã nước vào hai tay trước rồi mới đến toàn bộ cơ thể. Không nên tắm ngay sau khi ăn no, đi dưới trời nắng về, chơi thể thao...
Mắc bệnh cảm mùa hè cơ thể rất khó chịu, mệt mỏi, uể oải, lâu khỏi, ngại tập thể dục. Nhưng thực tế càng cần tập thể dục hơn để giúp cơ thể củng cố hệ miễn dịch, ít bị nhiễm bệnh hơn, cũng là cách tăng cường hệ miễn dịch chống bệnh. Vì vậy nên tập nhẹ nhàng tùy theo thể trạng, với thời gian ngắn hơn. Quan trọng là đừng để tự để mình cô đơn với bệnh cảm cô đơn, mà hãy cố gắng hòa nhập sinh hoạt ngoài trời để giúp hệ thống miễn dịch đẩy lùi bệnh cảm nhanh hơn. Chú ý tránh đến chỗ đông người, nên đeo khẩu trang, che miệng khi ho... để không lây bệnh sang người khác.
Khi bị đau họng, ho, sổ mũi, sốt nhẹ, người mệt mỏi, đau đầu... là dấu hiệu bệnh cảm mùa hè, hãy làm ngay:
- Nghỉ ngơi khi có dấu hiệu cảm (ngủ nhiều, hạn chế làm việc).
- Súc miệng thường xuyên bằng nước muối.
- Bổ sung vitamin C cho cơ thể (ăn và uống các loại rau quả có nhiều Vitamin C như: cam, bưởi, chanh...) và uống thêm viên C.
- Ăn tỏi: Tỏi sống có tác dụng như một loại kháng sinh giúp kích thích hệ miễn dịch của cơ thể.
- Tắm nước ấm, hoặc xông hơi trong những ngày bị cảm cúm cũng giúp cơ thể thư giãn, giảm bớt mệt mỏi.
- Rửa tay thường xuyên, phòng tránh vi rút mới và vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể. Cảm lạnh có thể xông lá, chữa theo cách dân gian.
Để tránh cảm cúm mùa hè cần tuân thủ:
- Tránh xa người ho, sổ mũi.
- Luôn rửa tay sạch, hoặc dùng nước rửa tay khô ở nơi văn phòng, công cộng. Không dùng tay tiếp xúc trực tiếp với tay nắm cửa, bàn phím máy tính chung, các dụng cụ công cộng...
- Uống nhiều nước - đặc biệt khi hoạt động ngoài trời - nên dùng nước sinh tố hoa quả, nước mát từ hoa quả... Bổ sung lợi khuẩn probiotic (trong sữa chua) cũng tăng cường hệ miễn dịch.
- Nên ăn chín uống sôi. Ăn đủ 4 nhóm chất (bột đường, đạm, béo, vitamin và khoáng chất) giúp cơ thể khỏe mạnh hơn. Ăn thực phẩm lành mạnh, nhiều rau xanh, trái cây, các loại nước ép trái cây để bổ sung vitamin, khoáng chất tăng sức đề kháng, giúp tăng cường hệ miễn dịch, giảm nguy cơ mắc bệnh.
- Tránh uống cafein, nước có cồn, nước tăng lực vì khiến cơ thể mất nước.
- Nghỉ ngơi nhiều, ngủ đủ giấc, hạn chế stress, giảm căng thẳng... để hệ miễn dịch khỏe mạnh.
-Vệ sinh máy lạnh để loại bỏ vi rút cảm cúm ở trong bụi đóng trong máy lạnh.
- Nếu bắt đầu thấy có triệu chứng cảm, hãy tránh những nơi đông đúc dễ lây nhiễm.
3 loại virus nguy hiểm với bà bầu, có loại có thể tiêm phòng trước khi mang thai Trong thời gian mang thai, bà bầu nhiễm phải 3 loại virus dưới đây có thể ảnh hưởng tới thai nhi. Virus rubella Phụ nữ bị nhiễm virus rubella trong ba tháng đầu của thai kỳ sẽ gây ra dị tật của trứng. Nhiễm virus loại này trong ba tháng đầu của thai kỳ còn có thể gây ra những bất thường về...