John McCain: Cựu binh Mỹ có nhiều duyên nợ với Việt Nam
Từ một tù binh trong cuộc chiến tranh Việt Nam, phi công hải quân Mỹ John McCain đã trở thành một trong những người thúc đẩy mạnh mẽ nhất bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ. Trong chính giới Mỹ, ông cũng là người có nhiều duyên nợ với quốc gia cách Mỹ nửa vòng Trái đất.
Tù binh năm xưa nay đã là một Thượng nghị sĩ kỳ cựu ở Mỹ và có nhiều đóng góp quan trọng trong việc bình thường hóa và thúc đẩy quan hệ giữa hai quốc gia cựu thù trước đây (Ảnh: LA)
Món nợ quá khứ
Tháng 10/1967, khi đang n.ém b.om trên bầu trời Hà Nội, phi cơ A-4E Skyhawk do Thiếu tá phi công hải quân Mỹ John McCain điều khiển b.ị b.ắn rơi. Ông bị bắt sau khi bung dù rơi xuống hồ Trúc Bạch và trở thành tù binh chiến tranh trong khoảng 5 năm rưỡi sau đó.
McCain được thả vào tháng 5/1973, sau khi Hiệp định Paris được ký kết.
Sau khi trở về Mỹ, John McCain vẫn tiếp tục phục vụ trong quân ngũ nhưng suy nghĩ và quan điểm về chiến tranh của ông đã thực sự thay đổi.
Trên thực tế, sự thay đổi đó đã được chính McCain chia sẻ một cách chân thực ngay trên giường bệnh khi đang điều trị vết thương sau lần n.ém b.om thúc thủ Hà Nội. Trong cuộc trò chuyện với một nhà văn nổi tiếng khi ấy, phi công McCain – con trai Đô đốc hải quân Chỉ huy Hạm đội VI đeo lon tướng 4 sao – đau đáu nỗi niềm chỉ mong chiến tranh Việt Nam mau kết thúc. Ông cho biết đó là lần cất cánh thứ 23 trong sự nghiệp quân ngũ của mình ở Việt Nam và là sứ mệnh đầu tiên ở Hà Nội.
Sau khi giải ngũ khỏi hải quân năm 1981, McCain tham gia chính trường. Ông được bầu vào Hạ viện một năm sau đó và được bầu vào Thượng viện năm 1986. Ông từng hai lần tranh cử Tổng thống vào các năm 2000 và 2008 nhưng đều thất bại. Hiện ông giữ vị trí Chủ tịch Ủy ban Quân vụ Thượng viện Mỹ.
Trong suốt thời gian tham gia chính trường, ông McCain đã khéo léo sử dụng hết số “vốn liếng chiến tranh” của mình để thúc đẩy tiến trình bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Không quá khi nói rằng “Việt Nam đã trở thành những trang đầy chữ trong nhật ký chính trị của McCain”.
Ở góc độ quan hệ giữa hai chính phủ, sau khi trở thành một chính trị gia kỳ cựu, McCain luôn tìm cách thúc đẩy bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Ông là một trong hai nhân vật năng nổ nhất (cùng với Thượng nghị sĩ John Kerry, nay là Ngoại trưởng Mỹ) hối thúc và vận động các chính quyền Mỹ khi đó bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
McCain khẳng định cần bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, một phần vì “đã đến lúc hàn gắn… đó là một cách để kết thúc chiến tranh, đến lúc nhìn về phía trước”, một phần vì đó là điều nên làm vì lợi ích quốc gia của Mỹ. McCain đã sớm nhận thấy chính “mảnh đất hình chữ S” mà khi xưa ông từng nhiều lần lái máy bay cường kích n.ém b.om là một đối trọng đáng giá của Mỹ trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Để tạo điều kiện tốt nhất cho tiến trình này, ông hối thúc hai bên khởi động các vấn đề nhân đạo như rà phá vật liệu nổ còn sót lại sau chiến tranh, tìm kiếm người mất tích trong chiến tranh, hỗ trợ những người bị khuyết tật do hậu quả chiến tranh, tẩy độc tại các khu vực bị nhiễm dioxin và thực thi pháp luật…
McCain cũng liên tục thực hiện các chuyến thăm trở lại Việt Nam với lần trở lại đầu tiên vào năm 1985. Trong chuyến thăm này, ông đã tới Đài tưởng niệm được dựng lên ở nơi mà cách đó đúng 18 năm, ông đã được kéo lên từ Hồ Trúc Bạch. Quãng thời gian McCain trở lại Việt Nam nhiều nhất là khi ông làm thành viên Ủy ban Thượng viện đặc trách về vấn đề tù binh và mất tích giai đoạn 1991-1993, một cơ quan có vai trò quan trọng trong việc cải thiện quan hệ giữa hai quốc gia.
Video đang HOT
Cũng nhờ những nỗ lực và sự vận động hết mình của McCain, cùng với sự ủng hộ của Thượng nghị sỹ John Kerry trong Ủy ban và Tổng thống Bill Clinton (người có tầm nhìn chiến lược về Việt Nam), cả hai chính đảng chi phối chính trường Mỹ (Dân chủ và Cộng hòa) đều đã dần ủng hộ bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Kết quả năm 1994, Thượng viện Mỹ thông qua giải pháp do John Kerry và John McCain bảo trợ, kêu gọi chấm dứt cấm vận kinh tế chống Việt Nam, dọn đường cho việc bình thường hóa quan hệ hai nước một năm sau đó.
Trong bài phát biểu nhân kỷ niệm 15 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao hai nước, Thượng nghị sĩ McCain nhấn mạnh: “Việt Nam đã trở thành một trong những đối tác quan trọng nhất, nhiều hứa hẹn nhất của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương”. Theo ông, “quan hệ hai nước không dừng lại ở chỗ bình thường hóa mà đã phát triển ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc” và “sẽ còn tiến xa hơn nữa”.
Nhận định đó đến nay vẫn hoàn toàn phù hợp, vì hầu hết các thành viên của cả hai chính đảng tại Mỹ luôn dành sự ủng hộ mạnh mẽ cho mối bang giao Việt Nam – Mỹ để tiếp tục thúc đẩy hai nước tăng cường quan hệ trong tương lai.
Mối lương duyên hiện tại
Song song với việc thúc đẩy bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ, Thượng nghị sĩ John McCain cũng luôn dành nhiều tâm sức cho cộng đồng người Việt tại Mỹ. Sự gần gũi của ông với cộng đồng này vượt trên cả quan hệ thông thường giữa chính khách và cử tri.
Ông đã thực sự trở thành “cầu nối” giữa họ với chính quyền sở tại, cũng như với chính phủ Việt Nam trong những năm đầu đầy khó khăn (do có nhiều người xa quê nhưng chưa hiểu đúng về tổ quốc mình ở bên kia nửa vòng Trái đất).
Cộng đồng người Việt tại Mỹ có khoảng 2 triệu người, chiếm gần một nửa trong tổng số hơn 4 triệu người Việt Nam ở nước ngoài và là cộng đồng người Việt lớn nhất bên ngoài lãnh thổ Việt Nam. Trải qua 40 năm định cư trên nước Mỹ, tuy quan điểm còn có điểm khác biệt, nhưng đại bộ phận bà con luôn gắn bó, hướng về quê hương, đất nước và có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển chung của đất nước, là cầu nối cho quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Rất nhiều trí thức người Việt tâm huyết, trăn trở với các vấn đề của đất nước và muốn đóng góp tri thức cho đất nước.
Không chỉ thế, ông McCain còn luôn đồng hành cùng cộng đồng người Việt tại Mỹ trong những thời điểm quan trọng. Điển hình là việc ông đã bất ngờ có mặt vào giờ chót tham gia cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc hạ đặt trái phép dàn khoan nước sâu Hải Dương-981 trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam giữa năm ngoái.
Trong thông điệp gửi đến tất cả những người Việt Nam trên thế giới nhân hoạt động này, ông McCain đã bày tỏ ủng hộ cuộc đấu tranh tự vệ đầy chính nghĩa của nhân dân Việt Nam và nhân dân Philippines trước hành động gây hấn của Trung Quốc, dùng sức mạnh nước lớn để đòi hỏi chủ quyền một cách phi lý chiếm hầu hết Biển Đông, không tôn trọng luật pháp quốc tế, gây căng thẳng, đe dọa sự ổn định trong khu vực.
“Tôi rất tự hào trước tinh thần yêu nước và đấu tranh của người Việt Nam khắp nơi… Người dân Hoa Kỳ sẽ luôn sát cánh với người dân Việt Nam ở Hoa Kỳ cũng như trên toàn thế giới chống lại sự bành trướng và thống trị của Trung Quốc”, ông khẳng định.
Đ.ánh giá về những đóng góp lớn của Thượng nghị sĩ McCain đối với quan hệ Việt Nam – Mỹ, trong cuộc gặp gỡ ở thủ đô Washington DC hôm 21/1 vừa qua, Đại sứ Việt Nam tại Mỹ Phạm Quang Vinh nhấn mạnh ông McCain luôn dành những tình cảm quý báu cho Việt Nam trong suốt nhiều năm qua và có nhiều đóng góp lớn cho quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước.
Đại sứ bày tỏ mong muốn Thượng nghị sĩ McCain sẽ tiếp tục ủng hộ việc triển khai hiệu quả, thực chất quan hệ Đối tác toàn diện hai nước, vì lợi ích của mỗi bên và lợi chung của hòa bình, ổn định, thịnh vượng tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Đáp lại, Thượng nghị sĩ John McCain khẳng định ông luôn coi trọng quan hệ Việt – Mỹ và với ông, Việt Nam có vai trò, vị trí quan trọng tại khu vực. Ông cũng đã chia sẻ những kỷ niệm gắn bó với Việt Nam trong nhiều năm qua.
McCain cũng đ.ánh giá cao những thành tựu xây dựng, phát triển đất nước và hợp tác đối ngoại của Việt Nam; đồng thời cam kết sẽ tích cực góp phần thúc đẩy hơn nữa quan hệ song phương, tăng cường hợp tác giải quyết hậu quả chiến tranh, thúc đẩy xóa bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí cho Việt Nam.
Vị cựu binh năm xưa còn bày tỏ mong muốn sang thăm Việt Nam trong năm nay, nhân kỷ niệm 20 năm quan hệ ngoại giao giữa hai nước, mà ông chính là một trong những người góp phần quan trọng đặt nền móng.
Ký ức không bao giờ nhạt phai
Nhìn ngược lại thời gian, cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc được 40 năm, mối quan hệ Việt Nam – Mỹ cũng sắp bước qua t.uổi 20 với sự nồng ấm tăng lên trong những năm gần đây. Nhưng với nhiều người, ký ức về cuộc chiến vẫn hiển hiện như vừa mới xảy ra. Thượng nghị sĩ John McCain là một trong số đó.
Đây chính là động lực mạnh mẽ đã thôi thúc ông luôn dành những tình cảm quý báu cho Việt Nam và không ngừng thúc đẩy quan quan hệ hợp tác giữa hai nước. Những nỗ lực đó sẽ càng được tăng cường trong năm nay, một dấu mốc quan trọng trong chiều dài quan hệ Việt – Mỹ vì vừa đ.ánh dấu kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, vừa là cơ hội để hai nước tiếp tục đẩy mạnh quan hệ Đối tác toàn diện đã được Chủ tịch nước Trương Tấn Sang xác lập trong chuyến thăm Mỹ tháng 7/2013.
Tất nhiên, dù quan hệ hai nước hiện đang đạt được nhiều tiến bộ mang tính đột phá song những trở ngại chưa phải đã hết, dư địa hợp tác vẫn còn nhiều. Vì thế, việc làm sâu sắc quan hệ Đối tác toàn diện sẽ là một chặng đường phía trước. Chặng đường đó dài hay ngắn phụ thuộc rất lớn vào ý chí của hai bên; cũng như sự đóng góp tích cực, hiệu quả và thiết thực của những người làm cầu nối như Thượng nghị sĩ John McCain và Ngoại trưởng John Kerry…
Mỹ hiện là đối tác kinh tế và thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam với tổng kim ngạch thương mại hai chiều năm 2014 đạt trên 35 tỷ USD. Trong đó, Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ hơn 28 tỷ USD, tăng 19% so với năm trước đó. Mỹ là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ bảy vào Việt Nam, với khoảng 700 dự án và tổng vốn gần 10,7 tỷ USD, chưa kể đầu tư của doanh nghiệp Mỹ qua nước thứ ba. Năm 2014, Mỹ đứng thứ 4 trong các nước có đông du khách tới Việt Nam với 443.000 lượt người. Hợp tác an ninh-quốc phòng tiếp tục được thúc đẩy. Hai bên đang triển khai gói hỗ trợ 18 triệu USD để giúp Việt Nam nâng cao năng lực hàng hải, đồng thời hướng tới việc Mỹ sớm dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí với Việt Nam, phù hợp với khuôn khổ quan hệ Đối tác toàn diện.
Đức Vũ
Theo Dantri
Từ ý tưởng của ông Lý Quang Diệu đến những dự án tỷ đô ở Việt Nam
Là điểm nhấn trong mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam và Singapore, các khu công nghiệp đô thị dịch vụ Việt Nam - Singapore (VSIP) đã được hình thành từ ý tưởng của cố Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu. Các khu công nghiệp này đã và đang thu hút được nhiều nhà đầu tư lớn trên thế giới.
VSIP - Điểm sáng trong thu hút đầu tư (Ảnh: vietnambreakingnews)
Điểm sáng trong thu hút đầu tư
Theo Bộ Kế hoạch - Đầu tư, hiện có 101 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, trong đó Singapore nằm trong top 4. Singapore hiện là nhà đầu tư lớn nhất của ASEAN vào Việt Nam, với 32,7 tỷ USD và hơn 1.350 dự án. Thống kê trong năm 2014, thương mại song phương giữa Việt Nam và Singapore đạt trên 16 tỷ USD, tăng 20,3% so với năm 2013.
Việt Nam và Singapore có mối quan hệ đặc biệt, những nhà lãnh đạo cấp cao của hai nước có mối quan hệ thân tình và tin cậy. Cho đến nay, dựa trên nền tảng mà ông Lý Quang Diệu đã xây dựng, mối quan hệ Singapore và Việt Nam đã chính thức được nâng lên tầm Đối tác chiến lược, mang lại chiều sâu trong quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực.
Ngày 14-5-1996, tại Bình Dương, lễ động thổ VSIP I đã diễn ra dưới sự chứng kiến của Thủ tướng hai nước lúc bấy giờ. Từ năm 2005, VSIP nhanh chóng mở rộng dự án thứ hai tại tỉnh Bình Dương, VSIP thứ ba tại tỉnh Bắc Ninh (2007), VSIP thứ tư tại Hải Phòng (2010) và gần đây nhất là dự án VSIP thứ năm tại tỉnh Quảng Ngãi (2013). Trong quá trình phát triển, VSIP đã chuyển mình từ một khu công nghiệp truyền thống trở thành khu liên hợp đô thị - công nghiệp, đem lại những giải pháp đô thị mới như quy hoạch tổng thể quốc tế, hạ tầng bền vững và thu hút nhà đầu tư nước ngoài sản xuất giá trị gia tăng cao hơn. Đến nay, VSIP đã thu hút gần 500 nhà đầu tư với tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 6,4 tỷ USD và tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu khoảng 8 tỷ USD, tạo ra 140.000 việc làm.
Lưu bút của nguyên Thủ tướng Singapore, Bộ trưởng danh dự cao cấp - Goh Chok Tong trong chuyến thăm VSIP Bắc Ninh năm 2014
VSIP trên vùng đất Kinh Bắc
Khởi công năm 2007, VSIP Bắc Ninh có tổng diện tích khoảng 700 ha, trong đó, diện tích khu công nghiệp là 500 ha, diện tích khu đô thị và dịch vụ là 200 ha, với vốn đầu tư dự kiến là 2 tỷ USD và thu hút khoảng 50.000 lao động. Tại lễ khởi công năm 2007, nguyên Thủ tướng Singapore, Bộ trưởng danh dự cấp cao Singapore - Goh Chok Tong đ.ánh giá: "VSIP Bắc Ninh không chỉ là khu công nghiệp theo tiêu chuẩn và mô hình mẫu của Singapore mà còn góp phần quan trọng trong quá trình đô thị hóa và phát triển của Việt Nam".
Hiện VSIP Bắc Ninh đã đầu tư hoàn thiện giai đoạn 1 và đang trong quá trình hoàn thiện giai đoạn 2. Khu công nghiệp đã thu hút 51 nhà đầu tư quốc tế đến từ các quốc gia như Singapore, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Mỹ... với nhiều tập đoàn, công ty lớn như Microsoft, Suntrory PepsiCo, Foster, Mapletree, Nittan. Hiện khu công nghiệp đang tạo công ăn việc làm cho khoảng 20.000 người.
Khẳng định mối quan hệ khăng khít giữa hai đất nước, tại chuyến khảo sát khu công nghiệp VSIP Bắc Ninh của nguyên Thủ tướng Singapore, Bộ trưởng danh dự cấp cao - Goh Chok Tong trong năm 2014, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh cho biết, thành công của các khu công nghiệp VSIP có sự đóng góp lớn của các nhà lãnh đạo của Việt Nam và Singapore như cố Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên Thủ tướng Chính phủ Singapore Lý Quang Diệu, Thủ tướng Chính phủ Singapore Lý Hiển Long...
Các khu công nghiệp VSIP không chỉ thu hút được doanh nghiệp tiêu biểu và có công nghệ cao, mà còn là một mô hình khu công nghiệp hoạt động có hiệu quả, có sự chăm sóc tới đời sống của người lao động, tham gia phúc lợi xã hội cũng như bảo vệ môi trường sinh thái. Đây là những khu công nghiệp tiêu biểu, là đứa con tinh thần thể hiện tinh thần hữu nghị giữa hai nước, xứng đáng với sự quan tâm của lãnh đạo Chính phủ của hai quốc gia.
Chị Đặng Thanh Hương - công nhân tại Khu công nghiệp VSIP Bắc Ninh chia sẻ: "Tôi vừa tốt nghiệp phổ thông trung học và hiện đang làm công nhân đóng gói. Làm việc trong công ty nước ngoài nên tôi rèn luyện cho mình được nhiều đức tính tốt như luôn chấp hành nghiêm túc các quy định về giờ giấc cũng như kỷ luật, nội quy. Mới vào làm việc nhưng hiện mức lương của tôi cũng được hơn 4 triệu đồng mỗi tháng. Trong đó, ngoài lương cơ bản, còn lại là các chế độ hỗ trợ như t.iền ăn, t.iền đi lại, chuyên cần, môi trường... Theo tìm hiểu của tôi thì mức lương sẽ được tăng mỗi năm 1 lân. Ngoài ra còn có 2 lần t.iền thưởng cũng như được cho đi tham quan, nghỉ mát".
Cùng với việc tạo công ăn việc làm cho người lao động, VSIP cũng góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội địa phương. Anh Trần Thanh Phong - xã Phù Chẩn, thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh chia sẻ: "Từ khi khu công nghiệp đi vào hoạt động, đời sống người dân trong vùng cũng được cải thiện đáng kể. Nhiều gia đình mở dịch vụ bán hàng, rồi cho thuê nhà... nhờ nhu cầu từ công nhân ở khu công nghiệp".
Ấn tượng với lời khuyên rất chân thành Có thể nói ông Lý Quang Diệu là người đầu tiên nhận thấy vai trò của Việt Nam trong khu vực và nhận thấy được lợi ích trong quan hệ với Việt Nam, đồng thời nhận thấy được lợi ích của việc Việt Nam tham gia vào tổ chức khu vực ASEAN. Ông rất hiểu được bàn cờ chính trị thế giới và khu vực cho nên ASEAN phải đoàn kết, phải biết tập hợp được những nước cần thiết, trong đó có Việt Nam. Tôi ấn tượng nhất có một lần ông nói với các nhà lãnh đạo Việt Nam: "Các ông đừng nên vui mừng Singapore là nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam, mà các ông phải phấn đấu thế nào để Mỹ là nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam". Đây là lời khuyên rất chân thành. Ông Lý Quang Diệu thấy được vấn đề và biết được rằng lợi ích dân tộc của ông gắn với lợi ích của các dân tộc khác và gắn với lợi ích khu vực. PGS. TS Dương Văn Quảng, Đại sứ Việt Nam tại Singapore (2003 - 2007)
Những gợi mở còn nguyên giá trị Trong hơn 40 năm quan hệ ngoại giao với Việt Nam, cựu Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu từng nhiều lần đến Việt Nam. Lần đầu tiên vào tháng 4-1992, ông đến thăm Hà Nội, TP.HCM và Đồng Nai, trò chuyện thân mật cả ngày với Thủ tướng Võ Văn Kiệt, tiếp xúc với Tổng Bí thư Đỗ Mười, nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nguyên Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh... Sau đó, ông liên tục trở lại Việt Nam vào tháng 11-1993, 3-1995, 11-1997 và lần cuối cùng là vào tháng 1-2007. Nhìn nhận về Việt Nam, ngay từ khi mới nhậm chức, Thủ tướng Lý Quang Diệu từng mơ ước một ngày nào đó Singapore sánh ngang được với hòn ngọc Viễn Đông Sài Gòn. "Nếu có vị trí số một ở Đông Nam Á thì đó phải là Việt Nam. Bởi so sánh về địa chính trị, tài nguyên, con người, Việt Nam không thể xếp sau nước nào trong khu vực", ông nhận xét. Trong chuyến thăm Việt Nam cuối cùng hồi đầu năm 2007, ông Lý Quang Diệu đã chia sẻ kinh nghiệm cũng như gợi mở những đường hướng giúp Việt Nam phát triển như vấn đề trọng dụng nhân tài, xây dựng bộ máy công khai minh bạch, chống tham nhũng, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục. "Chúng ta luôn giáo dục để thừa chứ không phải để thiếu. Nếu tính toán đào tạo đủ, chúng ta sẽ không thể cung cấp đủ nhu cầu của thị trường. Nếu thắng trong cuộc đua này, sẽ thắng trong phát triển kinh tế. Và Việt Nam sẽ thắng!", ông khẳng định.
Theo Hùng Anh
An ninh Thủ đô
Cố Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu và tình thân đối với Việt Nam Sự quan tâm đặc biệt của ông Lý Quang Diệu đối với Việt Nam được thể hiện ngay từ những năm 60 của thế kỷ trước và kéo dài cho đến ngày nay. Ngay trong thời điểm diễn ra cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam, Thủ tướng Singapore lúc đó, ông Lý Quang Diệu, đã đi khắp...