Hai thầy cô nên duyên nhờ cắm bản
Họ học chung với nhau suốt 3 năm nhưng lúc đó không nảy sinh tình cảm. Chính những ngày cắm bản gieo chữ trên non, thấu hiểu nỗi vất vả, chứng kiến sự tận tụy yêu nghề của “đối phương” mà tình yêu của họ nảy nở. Cô giáo đồng bằng quyết lên non dạy chữ cùng với người yêu.
Bản Phà Khốm – nơi thầy Vi Văn Mùi cắm bản dạy chữ cho học trò người Mông Trường Tiểu học Tri Lễ 2 (xã Quế Phong, Nghệ An).
Theo nhau lên núi
Tôi gặp thầy giáo Vi Văn Mùi (SN 1991, giáo viên Trường Tiểu học Tri Lễ 4, huyện biên giới Quế Phong, Nghệ An) năm 2017, khi đó Mùi đang là giáo viên cắm bản Huồi Xái 2. Đây là một trong những điểm bản xa nhất của ngôi trường khó khăn bậc nhất Nghệ An. Hồi đó, Mùi vừa cưới vợ. Vợ Mùi là cô giáo Đinh Thị Hiền (SN 1992), từ quê lúa Yên Thành “ngược non” đi cắm bản.
Mùi và Hiền vốn là bạn học cùng lớp tại Trường CĐ Sư phạm Nghệ An. Ra trường, thầy giáo Mùi xin về công tác tại Trường Tiểu học Tri Lễ 2 (Quế Phong) – nơi cách nhà mình hơn 30km. Cô giáo Hiền sau một thời gian cũng quyết định rời quê nhà, lên huyện biên giới Quế Phong để tìm cơ hội việc làm phù hợp với chuyên môn và được bố trí công tác tại Trường Tiểu học Quế Sơn.
Thầy Vi Văn Mùi (ngoài cùng bên phải) cùng đồng nghiệp đi hái măng rừng cải thiện bữa ăn sau giờ lên lớp (ảnh FBNV).
“Thời điểm đó cũng chỉ gọi điện, nói chuyện phiếm với nhau như kiểu bạn học cũ thôi, cũng chưa nảy sinh tình cảm gì. Hồi đó tôi được phân công dạy tại điểm Phà Khốm – một trong những điểm trường xa và khó khăn bậc nhất của Tri Lễ 2. Có lần tôi rủ cô ấy lên điểm trường mình dạy chơi cho biết, ai ngờ cô ấy lên thật và… ở lại Tri Lễ 2 luôn”, thầy giáo Mùi hài hước kể.
Thực ra cô giáo Hiền được chuyển công tác từ Quế Sơn lên Tri Lễ 2, đảm nhận nhiệm vụ cắm bản ở Huồi Luống. Từ điểm trường chính đến Phà Khốm phải đi qua Huồi Luống nên thầy Mùi phụ trách luôn việc đưa đón cô Hiền từ trường chính lên điểm bản vào sáng thứ 2 và “về trả” vào chiều thứ 6.
Chính cung đường rừng hiểm trở, những khó khăn vất vả trên con đường đến lớp đã rút ngắn khoảng cách giữa hai người đồng nghiệp khác giới. Họ bắt đầu quan tâm đến nhau nhiều hơn, vui niềm vui của nhau, buồn nỗi buồn của những giáo viên cắm bản thiếu thốn đủ bề. Tình yêu đến với họ nhẹ nhàng như thế nhưng cả hai ngại ngần không dám nói…
Từ hai người bạn cùng lớp, Vi Văn Mùi và Đinh Thị Hiền trở thành đồng nghiệp trước khi quyết định gắn bó cuộc đời với công tác dạy học ở biên giới Việt – Lào này.
Video đang HOT
Thông qua một người dân từ Phà Khốm xuống trung tâm xã, cô Hiền biết thầy Mùi nên bị ốm mua sữa, bánh cùng một đồng nghiệp ở điểm trường mầm non trong bản quyết định lên thăm. Từ chỗ của cô giáo Hiền đến điểm trường của thầy Mùi chỉ gần 4km nhưng phải đi đến gần 2 tiếng đồng hồ, chưa kể thêm gần 1 tiếng trèo dốc cao mới đến nơi.
Hay tin thầy Mùi vào rừng lấy măng chưa về, cô giáo trẻ ngồi bệt xuống trước cổng, bật khóc tức tưởi vì nghĩ mình bị… lừa.
“Sau 4 ngày ốm thì tôi đỡ hơn. Ở điểm trường thiếu thốn, anh em phải tự vào rừng cải thiện thêm. Thế nên khi cô ấy đến nơi thì tôi đi lấy măng chưa về. Cô ấy nghĩ mình bị lừa, ức quá, làm một hơi hết… 4 hộp sữa và cả gói bánh. Đi thăm người ốm mà uống cả sữa thăm người ốm luôn”, thầy Mùi cười lớn khi kể lại câu chuyện đã trở thành giai thoại trong tình yêu của mình.
Niềm vui của thầy giáo cắm bản là những bó hoa rừng học trò tặng vào những dịp lễ (ảnh FBNV)
“Làm gì uống đến 4 hộp sữa, chỉ uống có một hộp thôi”, cô Hiền phản bác nhưng tủm tỉm cười. “Thực ra hồi ấy đã có gì chính thức đâu nhưng cảm thấy ấm ức ghê lắm, thế là giận nhau luôn. Căng đến nỗi thầy điểm trưởng phải đứng ra “giảng hòa” mới êm” – cô Hiền nói thêm.
Giữa nơi núi cao hiểm trở, thông tin gián đoạn, việc liên lạc không phải dễ dàng gì. Tối, thầy Mùi trèo l.ên đ.ỉnh núi cao hứng sóng rớt để gọi điện trò chuyện với nữ đồng nghiệp. Tình cảm để chín muồi nhưng không dễ gì mở lời được. “Không dưới 3 lần tôi lấy hết can đảm gọi điện để tỏ tình nhưng cứ khi vào việc chính là… mất sóng. Đợt đó trời lại mưa suốt, đành phải ở lại bản, không thể về được”, thầy Mùi kể.
“Em có ở lại “cắm bản” với anh không?”
Đầu năm học 2015-2016, thầy Mùi có quyết định chuyển về công tác tại Trường Tiểu học Tri Lễ 4, khoảng cách hai người càng xa hơn. Nếu như trước đây, 1 vài tuần, lâu thì 1 tháng có thể gặp nhau thì nay, hai người đi hai cung đường ngược nhau, gặp nhau lại càng khó. Thứ duy nhất kết nối họ là những cú điện thoại phập phù bởi ở Huồi Xái 2 vào thời điểm đó vẫn là bản “nhiều không”.
Cuối năm 2017, họ về chung một nhà bằng đám cưới theo phong tục của đồng bào Thái.
“Xa xôi cách trở mới biết cần nhau, yêu nhau đến nhường nào. Một phần thời điểm đó xung quanh Hiền cũng có nhiều “vệ tinh”, nếu mình không rõ ràng, dứt khoát sợ đ.ánh mất cơ hội. Cuối tuần đó tôi quyết định về, hẹn Hiền ra quán cà phê và… nói thẳng. Cô ấy không nói gì, chỉ cười. Thôi, thế là mình quyết luôn, chả cần đợi người ta đồng ý”, thầy Mùi vui vẻ kể.
Từ huyện Yên Thành lên vùng biên dạy học, lúc đầu cô giáo Hiền cũng nghĩ đi một thời gian rồi về, ở quê còn bố mẹ. Những ngày bám bản Huồi Luống gieo chữ, nơi thiếu thốn đủ bề, giao thông, liên lạc cách trở, không ít khi cô giáo trẻ chông chênh. Chính tình yêu với người đồng nghiệp cắm bản đã “níu” cô lại, gắn bó với những em nhỏ nơi biên giới heo hút nghèo khó này.
Tình yêu đủ chín, cô giáo miền xuôi quyết định ở lại làm dâu bản Thái, học cách làm vợ, làm mẹ và làm quen phong tục tập quán của đồng bào. Ngày 29/10/2017, một đám cưới ấm cúng, giản dị theo đúng phong tục của đồng bào Thái và đám cưới hiện đại được tổ chức cùng với sự chúc phúc của gia đình hai bên và toàn thể giáo viên hai trường.
Vợ chồng thầy giáo cắm bản Vi Văn Mùi đón đứa con đầu lòng chào đời vào tháng 8 vừa qua.
Chốn đi về của đôi vợ chồng trẻ là gian nhà tập thể nhỏ bé ở Trường Tiểu học Tri Lễ 2. Khi cô Hiền mang bầu, nhà trường tạo điều kiện để cô chuyển về dạy ở điểm chính, thầy Mùi vẫn miệt mài cắm bản Huồi Xái.
Tháng 8/2018, cô Hiền về quê để tiện sinh con, thầy Mùi được chuyển công tác về điểm chính của Trường Tiểu học Tri Lễ 4 ở bản Mường Lống, phụ trách công tác Đội.
“Năm học này, đường từ Trường Tiểu học Tri Lễ 4 ra quốc lộ 48 đã tốt hơn. Hiện cơ quan chức năng đang huy động máy móc để mở đường ô tô vào bản Mường Lống. Giao thông thuận tiện hơn nên cuối tuần tôi có thể tranh thủ về thăm, ngủ với con 1 đêm rồi lên trường cho kịp giờ dạy. Chỉ thương vợ, lấy chồng, ở quê chồng lạ nước lạ cái, lạ phong tục, chồng lại công tác xa nên không mấy khi được đỡ đần”, thầy Mùi tâm sự.
Sau Tết nguyên đán sắp tới, cảnh mỗi người một quê mới kết thúc khi cô Hiền hết thời gian nghỉ thai sản, quay trở lại trường nhưng vì công tác, họ cũng sẽ không được ở gần nhau.
“Đó cũng là cái khó chung của những cặp vợ chồng cắm bản chị ạ. Khó khăn rồi cũng sẽ qua bởi xung quanh chúng em có gia đình, có đồng nghiệp, có học trò”, cô giáo Đinh Thị Hiền chia sẻ.
Hoàng Lam
Theo Dân trí
PGS trẻ nhất ĐH Sư phạm Huế: 1 năm đăng 19 bài báo trên tạp chí quốc tế
"Giảng dạy và nghiên cứu là một nghề, luôn cố gắng để "sống được" bằng nghề và gắn bó với nghề. Đó là động lực quan trọng giúp tôi gắn bó với công việc mình đã chọn, làm việc chăm chỉ và vượt qua khó khăn".
Đó là những chia sẻ về nghề dạy học của PGS.TS. Bùi Đình Hợi - giảng viên khoa Vật lý, Trường ĐH Sư phạm - ĐH Huế, là Phó Giáo sư trẻ nhất trong số 11 giáo sư, phó giáo sư của trường được bổ nhiệm năm 2017.
Trở thành phó giáo sư ở độ t.uổi 35, anh không giấu nổi sự vui mừng: "Chắc chắn đó cũng là cảm xúc chung của bất kỳ ai khi đón nhận niềm vinh dự này. Chức danh đó có nhiều ý nghĩa quan trọng, trong đó thể hiện sự nỗ lực không ngừng trong giảng dạy và nghiên cứu; sự ghi nhận của xã hội; là dấu mốc cho sự trưởng thành trong công việc và sự nghiệp của mỗi người ở vị trí như tôi".
Vốn là sinh viên từ trường ĐH Sư phạm - ĐH Huế, PGS.TS. Bùi Đình Hợi đã được học từ các thầy cô rất nhiều điều, từ chuyên môn cho đến các phẩm chất của một nhà giáo. Nay trở thành một giảng viên và được sống trong môi trường làm việc đầy tính nhân văn đã giúp anh vững tin hơn khi chọn và gắn bó với ngôi trường này. Tiếp bước truyền thống của những người thầy đi trước, anh nguyện làm người truyền lửa cho các thế hệ sinh viên mới trên hành trình đem tri thức đến khắp mọi vùng của Tổ quốc.
Bằng sức trẻ và tình yêu nghề, anh nhận thấy mình cần học tập, nghiên cứu tích cực hơn nữa để đóng góp một phần nhỏ bé vào sự nghiệp giảng dạy, bồi dưỡng, đào tạo và chuyển giao công nghệ của Nhà trường. Các mục tiêu đặt ra từng bước được anh chinh phục.
Đến nay, anh là tác giả và đồng tác giả của khoảng 40 bài báo khoa học công bố, đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành thuộc danh mục ISI, trong đó có các tạp chí được xếp hạng cao. Đặc biệt, trong năm 2017, anh có 19 bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế, một con số kỷ lục từ trước đến nay. Với những thành tích đó, anh vinh dự đạt giải Nhất G.iải t.hưởng Khoa học và Công nghệ dành cho giảng viên trẻ các cơ sở giáo dục đại học năm 2018.
Các nghiên cứu anh tập trung vào lĩnh vực vật lý các chất đông đặc (ngưng tụ). Trong đó, nghiên cứu chuyên sâu về các hệ vật liệu thấp chiều như hố lượng tử, siêu mạng bán dẫn. Đặc biệt, gần đây là các vật liệu thấp chiều thế hệ mới siêu mỏng (có bề dày chỉ bằng một hoặc vài lớp nguyên tử) và các dị tiếp xúc của chúng. Các vật liệu này đã và đang là đối tượng quan tâm bậc nhất của các nhà Vật lý chất rắn và khoa học vật liệu trên thế giới do chúng có nhiều tính chất mới và ưu điểm so với các vật liệu bán dẫn truyền thống, mở ra nhiều ứng dụng mới trong các thiết bị và linh kiện quang - điện tử, đặc biệt ở kích thước nhỏ cỡ nanomet.
PGS trẻ Bùi Đình hợi - giảng viên Khoa Vật lý, Trường ĐH Sư phạm - ĐH Huế (trái) cùng Hiệu trưởng nhà trường - PGS.TS. Lê Anh Phương
Bên cạnh đó, anh thực hiện các nghiên cứu lý thuyết và tính số về các tính chất Vật lý và một số hiệu ứng xảy ra trong các cấu trúc vật liệu thấp chiều (cấu trúc nano) đã đề cập ở trên. Cụ thể là khảo sát cấu trúc tinh thể, các tính chất điện tử (cấu trúc vùng năng lượng, sự chuyển pha điện tử), tính chất quang, điện - từ và một số hiệu ứng xảy ra khi hệ vật liệu được đặt trong trường điện từ ngoài. Mục đích là tìm ra các tính chất, các đặc điểm mới mà các vật liệu trước đó không có. Đây là các vấn đề nghiên cứu có tính thời sự và có ý nghĩa khoa học cao. Ngoài việc giải thích lý thuyết, làm rõ cơ chế quy định các tính chất và các hiệu ứng xảy ra, các kết quả tìm được còn góp phần định hướng cho các nghiên cứu ứng dụng của các vật liệu đó vào từng thiết bị, linh kiện cụ thể.
Để có kết quả như hôm nay, bên cạnh sự đồng hành của gia đình, thầy cô và đồng nghiệp là sự nỗ lực không ngừng nghỉ của bản thân khi phải vượt qua bao khó khăn. Những năm tháng miệt mài nghiên cứu giúp anh đúc kết được nhiều kinh nghiệm quý giá để có được kết quả tốt nhất.
Anh luôn tâm niệm việc giảng dạy và nghiên cứu là một nghề, vì vậy luôn cố gắng để "sống được" bằng nghề và gắn bó với nghề. Đó là động lực quan trọng giúp anh gắn bó với công việc mình đã chọn, làm việc chăm chỉ và vượt qua khó khăn.
Chọn học và nghiên cứu Vật lý vì thực sự yêu thích Vật lý. Được nghiên cứu một lĩnh vực (dù nhỏ) của Vật lý giúp anh nâng tầm hiểu biết và thỏa mãn sự tò mò của mình đối với lĩnh vực này. Để đạt được mục đích đề ra cần phải chấp nhận hi sinh, "mất mát, chẳng hạn thời gian dành cho người thân, bạn bè, những đam mê khác, thậm chí là sức khỏe bản thân".
Theo PGS.TS. Bùi Đình Hợi, sự hợp tác và làm việc nhóm là kỹ năng hết sức quan trọng trong nghiên cứu. Hợp tác trong công việc giúp phát huy sức mạnh tập thể, khai thác điểm mạnh của mỗi thành viên trong nhóm nghiên cứu, có cơ hội chia sẻ các ý tưởng và cùng nhau tháo gỡ khó khăn, vướng mắc: "Tôi may mắn có cơ duyên được quen biết và làm việc với một số đồng nghiệp ở trong nước cũng như quốc tế, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hiếu (ĐH Duy Tân), PGS.TS. Huỳnh Vĩnh Phúc (ĐH Đồng Tháp), TS. Nguyễn Văn Chương (Học viện Kỹ thuật quân sự), TS. Yarmohammadi (Iran). Tôi đã học hỏi được rất nhiều từ họ và thông qua hợp tác chúng tôi thu được các kết quả nghiên cứu rất quan trọng".
Đạt được những thành quả đáng khích lệ nhưng anh vẫn luôn khiêm tốn và cho rằng: "Những gì tôi đã đạt được thực sự còn nhỏ bé so với nhiều đồng nghiệp mà tôi biết, đặc biệt là so với các nhà nghiên cứu quốc tế thì vẫn còn một khoảng cách khá xa". Vì vậy, trong tương lai gần, anh mong có thể đạt được một số kết quả tốt trong hướng nghiên cứu đã chọn và muốn được học hỏi thêm nhiều điều thú vị, mới mẻ từ các đồng nghiệp.
Mai Lan - Đại Dương
Theo Dân trí
Thanh Hóa: Buồn vui sau bục giảng của cô giáo hơn 30 năm gắn với sự nghiệp trồng người Dù có một hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, chồng qua đời sớm, một mình phải chăm sóc người con bị tật nguyền thế nhưng hơn 30 năm qua, cô Nguyễn Thị Hằng (Trường Tiểu học Điện Biên 1, TP Thanh Hóa) luôn hoàn thành nhiệm vụ, nhiều năm liên tục là giáo viên giỏi cấp tỉnh, là tấm gương về nghị lực...