Giáo dục giới tính theo phương thức cấm đoán không còn phù hợp
Các chuyên gia cho rằng, hiện nay chương trình giáo dục vẫn còn lỗ hổng lớn về giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản, tình dục an toàn, dẫn đến nhiều học sinh thiếu hiểu biết về vấn đề này, để lại những hậu quả đáng tiếc.
Mới đây, vụ một nữ sinh lớp 7 tự sinh con trong nhà vệ sinh khiến dư luận không khỏi giật mình. Điều đáng nói, chỉ khi nữ sinh này sinh xong, gia đình và nhà trường mới hay biết sự việc. Câu chuyện được coi như một hồi chuông cảnh báo với không ít phụ huynh có con ở độ tuổi vị thành niên.
Từ câu chuyện này cũng đặt ra những băn khoăn rằng phải chăng, công tác giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản, tình dục an toàn hiện nay tại các cấp học còn quá nhiều lỗ hổng, và phải chăng, khoảng cách giữa các thế hệ thầy cô, cha mẹ và học sinh đang dần xa cách, để lại những sự việc không mong muốn.
TS. Nguyễn Thị Ngọc Linh, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã có chia sẻ với phóng viên VOV về vấn đề này.
TS. Nguyễn Thị Ngọc Linh, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội cho rằng, giáo dục giới tính, tình dục an toàn và sức khỏe sinh sản ở Việt Nam đang rất hạn chế.
PV: Từ những trường hợp trẻ dưới tuổi vị thành niên phải làm cha, mẹ bất đắc dĩ xảy ra trong thời gian qua, phải chăng công tác giáo dục về giới tính, tình dục an toàn và sức khỏe sinh sản trong nhà trường hiện nay vẫn còn những lỗ hổng, thưa bà?
TS. Nguyễn Thị Ngọc Linh: Thực trạng giáo dục giới tính, tình dục an toàn và sức khỏe sinh sản ở Việt Nam đang rất hạn chế. Tính đến thời điểm này vẫn chưa có môn học này trong chương trình giáo dục của các cấp bậc đào tạo. Những kiến thức này mới chỉ bắt đầu được lồng ghép vào một số môn học ở các bậc đào tạo, như môn Khoa học của bậc Tiểu học, môn sinh học của bậc Trung học cơ sở hay một số buổi sinh hoạt ngoại khóa của bậc Trung học phổ thông…Tuy nhiên, mức độ lồng ghép những kiến thức này vẫn còn rất hạn chế, chưa được đầy đủ, toàn diện và mang tính hệ thống.
Bên cạnh đó, trong quá trình giảng dạy nhiều thầy cô vẫn e ngại và không muốn lồng ghép giảng dạy, chia sẻ về những kiến thức liên quan đến giáo dục giới tính, tình dục an toàn và sức khỏe sinh sản. Khi tôi học lớp 8, môn Sinh học có bài về cơ thể người nói đến cấu tạo của bộ phận sinh dục và các hiện tượng kinh nguyệt của nữ giới, xuất tinh của nam giới, cô giáo đã ngại không giảng mà cho chúng tôi về nhà tự đọc và nghiên cứu.
Khi tôi học đại học ngành Luật có những bài giảng về tội phạm xâm hại tình dục nói đến các hành vi hiếp dâm, giao cấu… bản thân nhiều thầy cô đại học cũng ngại giảng hay nói sâu về những tội này, sinh viên thì thẹn thùng và ngại nghe những kiến thức này. Hoặc, trong một chủ đề nào đó được thảo luận công khai nơi công cộng, nếu đề cập đến các vấn đề này thì thường mọi người sẽ lảng tránh, không dám chia sẻ thật sự các suy nghĩ quan điểm của mình, thậm chí có người còn gạt đi không muốn đề cập đến vì xấu hổ hoặc cho rằng không tốt. Nếu ai đó mà hưởng ứng, hoặc hào hứng nghe hoặc nói về những chủ đề này đặc biệt nữ giới thì ngay lập tức sẽ bị những người xung quanh bàn tán.
Sở dĩ có những hiện tượng này là bởi người Việt chịu ảnh hưởng sâu sắc những quan niệm và văn hóa của một nền phong kiến lâu đời.
Video đang HOT
Đáng buồn là trong những năm gần đây Việt Nam liên tục là một trong những quốc gia dẫn đầu về tỷ lệ nạo hút, phá thai ở tuổi vị thành niên và truy cập vào các các website sex; các tội phạm xâm hại tình dục cũng gia tăng, thiên biến vạn hóa về thủ đoạn phạm tội, phong phú, đa dạng, phức tạp về chủ thể phạm tội cũng như nạn nhân bị xâm hại… Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng đáng buồn trên là những lỗ hổng trong việc giáo dục giới tính, tình dục an toàn và sức khỏe sinh sản.
PV: Thực tế nhiều bậc phụ huynh vẫn dùng cách ngăn cấm, thay vì dạy con hiểu đúng, đủ về giới tính, tình dục và sức khỏe sinh sản. Nhịp sống công nghiệp nhanh cũng đang khiến nhiều bậc phụ huynh ít có thời gian quan tâm đến con cái hơn. Bà nghĩ sao về vấn đề này?
TS. Nguyễn Thị Ngọc Linh: Thực tế cho thấy, do sự hổng khuyết về những kiến thức này trong các cấp bậc đào tạo từ trước nên không phải chỉ các con bị hạn chế về kiến thức giới tính, tình dục an toàn và sức khỏe sinh sản mà chính các bậc phụ huynh cũng bị hạn chế những kiến thức này nên việc giáo dục giới tính và các kiến thức liên quan cho con còn nhiều hạn chế.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh kinh tế thị trường, nhiều gia đình bị cuốn vào cuộc sống công nghiệp, bố mẹ mải mê kiếm tiền cả ngày, hầu hết các gia đình chỉ sinh hoạt chung với nhau vào buổi tối hoặc cuối tuần. Ngoài ra, còn nhiều bậc phụ huynh mắc bệnh thành tích nên chỉ chăm chú vào việc bồi dưỡng kiến thức cho con, ban ngày con đi học, tối đến lại tiếp tục đi học thêm, dẫn đến việc cha mẹ và con cái không gần gũi, gắn kết, cũng có thời gian chia sẻ, tâm sự. Thậm chí nhiều phụ huynh vô tâm tới mức không nhận diện được việc con cái thay đổi về tâm lí, sinh lí, và cơ thể. Nên vụ việc nữ sinh lớp 7 chỉ đến khi sinh con, gia đình mới biết không còn là chuyện hiếm hoi.
Theo quan điểm của cá nhân tôi, giáo dục theo phương thức cấm đoán không còn phù hợp với sự vận động và phát triển của xã hội ngày nay. Việc người lớn cấm đoán sẽ càng khiến trẻ tò mò và kích thích trẻ lao vào tự tìm hiểu những việc bị cấm đoán. Đặc biệt, đối với những trẻ đang ở lứa tuổi dậy thì, bắt đầu có sự thay đổi và chưa ổn định về cả sinh lí, tâm lí. Trẻ sẽ xuất hiện các cảm nhận về giới tình và giới rõ nét, thậm chí hình thành những cảm xúc khác giới như thích, yêu… Nếu thấy trẻ thích hoặc yêu nhau, gần gũi, thân thiết nhau mà phụ huynh cấm đoán, sẽ dẫn đến những phản ứng ngược, trẻ sẽ hình thành tâm lý và các biện pháp phòng ngừa đối với với bố mẹ, thầy cô. Thậm chí trẻ sẽ có xu hướng nói dối, khiến bố mẹ khó nhận diện tình trạng thực tế để có những phân tích, chia sẻ và định hướng với con kịp thời, đúng đắn.
PV: Vậy theo bà, cần có những thay đổi ra sao trong chính gia đình và nhà trường để nâng cao nhận thức về vấn đề giới tính, sức khỏe sinh sản, tình dục an toàn với học sinh hiện nay?
TS Nguyễn Thị Ngọc Linh: Tôi cho rằng, các bậc phụ huynh nên thay đổi quan điểm giáo dục, không nên cấm đoán. Hiện nay, độ tuổi dậy thì ở cả trẻ em nam và nữ đều sớm hơn rất nhiều so với trước đây, đặc biệt là các bé gái. Chính vì vậy, gia đình và nhà trường cần trang bị cho con phù hợp theo từng lứa tuổi các kiến thức rất bài bản, đầy đủ về giới tính, sức khỏe sinh sản, tình dục an toàn.
Nếu có thể, tôi đề xuất nên đưa những kiến thức này thành môn học trong nhà trường hoặc được lồng ghép đầy đủ, hệ thống và bài bản hơn trong các chương trình giáo dục hiện nay. Thậm chí, ngay từ bậc mầm non, tiểu học, đã cần dạy cho trẻ để nhận diện một cách rất rõ ràng về giới tính. Ở mỗi độ tuổi, cấp học, nên có những cách lồng ghép phù hợp khác nhau. Điều này vô cùng quan trọng, bởi không cha mẹ nào có thể nắm tay đi theo con cả ngày, cấm các con không được yêu đương, quan hệ tình dục. Chỉ khi có những hiểu biết đầy đủ về giới tính, tình dục an toàn, sức khỏe sinh sản, các em sẽ hình thành nhận thức đúng đắn và cư xử đúng đắn, ngay cả khi bước vào những mối quan hệ tình cảm sâu đậm.
Bên cạnh đó, các bậc phụ huynh cũng cần chia sẻ, phân tích cho trẻ biết rằng, ở mỗi giai đoạn phát triển, đâu là nhiệm vụ chính của trẻ. Ví dụ, con có thể yêu, có thể có cảm xúc khác giới, khi mẹ bằng tuổi con cũng vậy, nhưng ở giai đoạn này, điều gì mới là quan trọng nhất. Nếu con thi trượt, học lại, thậm chí phải bỏ học thì sau này tương lai con ra sao? Phụ huynh có thể yêu cầu con tự viết ra những điểm lợi, hại của 2 trường hợp, đồng thời phân tích thiệt hơn để trẻ hiểu đúng và có hành vi xử sự đúng đắn. Nếu con tiếp tục muốn phát triển mối quan hệ, thì cha mẹ hãy hướng dẫn, chia sẻ và phân tích cho con để con biết điểm dừng, giới hạn.
Để nâng cao hiệu quả giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản, tình dục an toàn cho các con, đòi hỏi nhà trường và gia đình cần có sự phối hợp chặt chẽ. Để có thể chia sẻ, định hướng và dạy con hiệu quả, trước hết, bản thân mỗi ông bố, bà mẹ cũng cần tự trang bị kiến thức cho mình về vấn đề này. Ngoài việc giảng dạy chính thức hay lồng ghép vào các môn học, các trường cũng có thể tổ chức các buổi tuyên truyền, nói chuyện chuyên đề, tọa đàm, tư vấn tâm lí… hay các buổi ngoại khóa để học sinh, sinh viên có cơ hội tìm hiểu, trao đổi, chia sẻ và trang bị những kiến thức này đầy đủ, toàn diện hơn. Điều này, góp phần giúp xã hội, nhà trường và gia đình phát triển bền vững và loại bỏ, hạn chế được những rủi ro liên quan đến lĩnh vực này.
PV: Xin cảm ơn bà!/.
Từ vụ việc nữ sinh lớp 7 tự sinh con, cảnh báo lỗ hổng trong giáo dục giới tính
Mới đây, sự việc một học sinh lớp 7 tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu sinh con trong phòng tắm của gia đình, tự cắt dây rốn gây xôn xao dư luận, không ít phụ huynh có con trong độ tuổi vị thành niên hoang mang lo lắng.
Chuyên gia Nguyễn Sóng Hiền cho rằng, suốt một thời gian dài chương trình giáo dục của nhà trường quá coi nhẹ giáo dục giới tính và sức khoẻ sinh sản cũng như các kỹ năng sống khác cho học sinh, mà chỉ chăm chăm vào nhồi nhét kiến thức, thi đua lấy thành tích.
Mới đây, sự việc một học sinh lớp 7 tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu sinh con trong phòng tắm của gia đình, tự cắt dây rốn gây xôn xao dư luận, không ít phụ huynh có con trong độ tuổi vị thành niên hoang mang lo lắng.
Câu chuyện này cũng đặt ra những câu hỏi, phải chăng việc định hướng, trang bị kiến thức về sức khỏe sinh sản và giới tính cho học sinh hiện nay còn nhiều lỗ hổng? Chuyên gia giáo dục Nguyễn Sóng Hiền, thành viên liên đoàn giáo dục độc lập Australia đã có trao đổi với phóng viên VOV.VN về vấn đề này.
Chuyên gia giáo dục Nguyễn Sóng Hiền, thành viên liên đoàn giáo dục độc lập Australia. (Ảnh: NVCC)
PV : Từ vụ nữ sinh lớp 7 tự sinh con, nhiều băn khoăn cho rằng công tác giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản cho học sinh hiện nay còn nhiều lỗ hổng? Quan điểm của ông về vấn đề này ra sao, thưa ông?
Chuyên gia Nguyễn Sóng Hiền: Việc nữ sinh lớp 7 mang thai như báo chí đưa tin không còn hy hữu mà thực tế đang ở mức báo động đối với xã hội hiện nay. Nhiều ý kiến cho rằng, do trẻ sớm tiếp xúc quá nhiều với phim ảnh đồi trụy, một số ý kiến khác nhận định nguyên nhân do thiếu sự quan tâm, giám sát gia đình.
Nhưng nhìn nhận một cách khách quan, nguyên nhân quan trọng nhất đã tồn tại suốt một thời gian dài là trong chương trình giáo dục của nhà trường quá coi nhẹ giáo dục giới tính và sức khoẻ sinh sản cũng như các kỹ năng sống khác cho học sinh, thay vào đó chỉ chăm chăm vào nhồi nhét kiến thức, thi đua lấy thành tích.
Trong khi đó, vấn đề này được các quốc gia phát triển hết sức quan tâm và coi là một chính sách ở tầm quốc gia. Tại Mỹ, ngay những thập niên 60 của thế kỷ 20 chương trình giáo dục giới tính và sức khoẻ sinh sản đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường từ cấp THCS và từ cuối những thập niên 80 và đầu những năm 90, chính phủ Mỹ đã triển khai nhiều chương trình giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trên khắp đất nước từ bậc THCS cho đến giáo dục đại học.
Họ đã dành một quỹ riêng cho các bang để triển khai các chương trình này và xem như một phần quan trọng như giáo dục các môn chính khóa và là yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực tương lai.
PV : Thực tế hiện nay nhiều bậc phụ huynh, thậm chí cả giáo viên còn e ngại khi giáo dục về vấn đề giới tính, sức khỏe sinh sản. Nhiều người chọn cách ngăn cấm để tránh "vẽ đường cho hươu chạy", ông nghĩ sao về cách dạy con như vậy?
Chuyên gia Nguyễn Sóng Hiền: Ở góc độ văn hóa, Việt Nam cũng như các quốc gia Châu Á khác bị ảnh hưởng nặng nề bởi tư tưởng Nho giáo. Nho giáo xem những gì liên quan đến tình dục là xấu xa, thấp hèn và bẩn thỉu. Vì tư tưởng đó mà người Việt nói riêng và hầu hết những người Châu Á nói chung đều cảm thấy rất xấu hổ và e thẹn khi nói đến chủ đề đó. Cũng bởi vậy, nhiều phụ huynh đã tự tạo ra một khoảng cách vô hình với con cái khiến trẻ thiếu đi một nơi tin cậy nhất để được chia sẻ và giải đáp những thắc mắc về vấn đề đang gặp phải.
Các phụ huynh quên rằng, ngay khi học sinh bước vào lớp 6 các bé gái đã bắt đầu có những thay đổi về mặt sinh lý và thể chất trong khi các em nam diễn ra chậm hơn một vài năm so với nữ.
Ở những giai đoạn này, trẻ bắt đầu tỏ ra lo lắng và tò mò về những thay đổi cơ thể của mình. Nếu không được sự giáo dục và định hướng đúng đắn trẻ có thể rơi vào những hành vi tiêu cực và việc quan hệ tình dục là điều khó tránh khỏi.
Do đó, thay vì lảng tránh, các phụ huynh nên chủ động dành thời gian để chia sẻ một cách cởi mở về những kinh nghiệm và hiểu biết của mình liên quan đến sức khoẻ sinh sản, hậu quả của quan hệ tình dục sớm, cũng như các vấn đề liên quan đến những thay đổi sinh lý và thể chất của các em ở độ tuổi này nhằm sớm ngăn chặn những hậu quả đáng tiếc xảy ra.
PV : Thưa ông, tại các quốc gia có nền giáo dục phát triển, việc giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản cho học sinh được triển khai ra sao? Theo ông, Việt Nam cần có những thay đổi gì để nâng cao nhận thức của học sinh về vấn đề giới tính, tình dục, sinh sản?
Chuyên gia Nguyễn Sóng Hiền: Tại Australia, vì chịu ảnh hưởng văn hóa phương Tây nên vấn đề giáo dục giới tính và sức khoẻ sinh sản được dạy ngay từ cấp tiểu học. Trẻ em, đặc biệt là bé gái ý thức rất rõ về quyền bất khả xâm phạm thân thể của mình. Việc muốn bế hay hôn những bé dưới tuổi vị thành niên cần phải được sự đồng ý của trẻ hoặc bố mẹ hay người giám hộ. Việc động chạm đến cơ thể người khác mà không được phép được luật pháp xem đó có thể là một hành vi quấy rối tình dục và bị xử phạt nặng.
Ngay cả ngôn ngữ nếu dùng những lời lẽ khiếm nhã và mang tính gợi dục cũng được quy vào tội quấy rối tình dục. Cho nên, cá nhân tôi sống ở Australia một thời gian dài nhưng những chuyện học sinh mang thai ở lớp 7 và lớp 8 chưa bao giờ nghe thấy.
Ngay cả ở đại học, vấn đề giáo dục về sức khoẻ sinh sản và quan hệ tình dục cũng rất được nhà trường quan tâm. Trường có riêng một bộ phận tư vấn cho sinh viên về vấn đề này và có đường dây nóng hỗ trợ để có thể can thiệp sớm những vấn đề xảy ra liên quan đến sức khỏe sinh sản hay quấy rối tình dục.
Rào cản lớn nhất trong vấn đề giáo dục giới tính và sức khoẻ sinh sản đối với những quốc gia bị ảnh hưởng bởi Nho giáo là không chú trọng đến vấn đề giáo dục giới tính và sức khoẻ sinh sản. Để giải quyết vấn đề này, một số quốc gia đã đưa ra các biện pháp hiệu quả để khắc phục.
Đơn cử như Hong Kong đã tìm ra một giải pháp sử dụng game trò chơi có tên gọi "Making Smart Choices" (Chọn lựa thông minh) dành cho các học sinh tuổi vị thành niên nhằm giúp các em có thể tự trang bị cho mình những kiến thức đúng đắn và có thái độ tích cực về giáo dục giới tính và sức khoẻ sinh sản.
Việt Nam có thế mạnh về công nghệ số vì vậy cá nhân tôi cho rằng, nếu Chính phủ cũng như nghành giáo dục có chính sách cụ thể về vấn đề này thì việc trang bị kiến thức và nâng cao nhận thức cho không chỉ học sinh mà cả phụ huynh và các giáo viên cũng như xã hội là điều hoàn toàn có thể thực hiện thành công.
PV : Xin cảm ơn ông!/.
Hình ảnh đẹp về thầy cô, mái trường cần tiếp tục được nhân rộng Kết quả cuộc thi "Những kỷ niệm sâu sắc về thầy/cô và mái trường mến yêu" và những hình ảnh đẹp về thầy cô và mái trường được phản ánh trong các tác phẩm dự thi cần được nhân rộng lan tỏa hơn nữa. Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Hữu Độ phát biểu tại lễ tổng kết/trao giải. Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn...