Dầu cá: Dùng sai, lợi bất cập hại
Dầu cá là tên gọi chung cho thuốc và thực phẩm chức năng dạng viên nang mềm chứa vitamin tan trong dầu (hoặc dầu gan cá), được dùng bồi dưỡng sức khoẻ.
Dầu cá thông dụng hiện nay chia làm hai loại: loại chứa vitaminA, D tan trong dầu; và loại chứa axít béo omega-3, omega-6. Hai loại này đang được nhiều người chuộng mua, đặc biệt mua dùng cho trẻ, nhưng hiểu biết về chúng có nhiều hạn chế.
Dầu cá là tên gọi chung cho thuốc và thực phẩm chức năng dạng viên nang mềm chứa vitamin tan trong dầu (hoặc dầu gan cá), được dùng bồi dưỡng sức khoẻ.
Có bốn vitamin cần được bổ sung cho cơ thể hàng ngày là A, D, E, K. Riêng A, D là hai vitamin trẻ con thường bị thiếu hụt nhưng nếu dùng quá liều dễ gây ngộ độc. Trong thiên nhiên, vitamin A có nhiều trong trứng, sữa, bơ, gan, thịt động vật; và dưới dạng tiền sinh tố A (còn gọi bêta-caroten) trong các loại rau có màu đỏ, vàng hoặc xanh lục đậm. Trẻ sử dụng các nguồn này thì không sợ quá liều. Vitamin A tham gia tạo mô, da, võng mạc ở mắt giúp thị giác hoạt động tốt, tăng cường sức đề kháng của cơ thể. Nếu thiếu vitamin A, trẻ sẽ bị quáng gà, khô mắt đưa đến mù loà, dễ bị bệnh nhiễm khuẩn, chậm lớn…
Vitamin D có tên khoa học là calciferol, được cung cấp từ thực phẩm có hai dạng: vitamin D2 hay ergocalciferol hiện diện trong thực vật (nấm men và một số loại nấm), vitamin D3 hay cholecalciferol có trong động vật (nhiều nhất là dầu gan cá biển sâu).
Đặc biệt, ở vùng thượng bì của da chúng ta có chứa hợp chất 7-dehydrocholesterol cũng được xem là tiền vitamin D. Tia cực tím của ánh nắng (đặc biệt là UVB có bước sóng 290 – 325nm) khi chiếu vào da sẽ biến tiền vitamin D thành cholecalciferol tức vitamin D3. Chỉ cần mười phút để hai tay và khuôn mặt dưới nắng mặt trời không cần gắt lắm là đủ tổng hợp vitamin D với lượng cần thiết cho cả ngày. Vai trò chính của vitamin D là tạo xương bằng cách duy trì lượng canxi và phốtpho có sẵn trong cơ thể để hoá xương. Nếu thiếu vitamin D, sẽ thiếu chất khoáng cho xương và răng đưa đến còi xương ở trẻ con và nhuyễn xương, loãng xương ở người lớn.
Vitamin A và D là hai vitamin tan trong chất béo và cùng có mặt trong gan một số cá như cá thu, cá nhám… nên để bổ sung hai vitamin này có thể dùng thuốc viên dầu gan cá (Cod’s Liver Oil) hay thuốc viên vitamin A – D. Nhưng xin lưu ý mấy điều sau:
Video đang HOT
Tham khảo bác sĩ trước khi cho trẻ dùng
Không dùng quá liều, vì vitamin A quá liều có thể gây quái thai, còn trẻ sơ sinh thì bị tăng áp lực sọ não đưa đến lồi thóp, viêm teo dây thần kinh thị giác. Dùng quá liều vitamin D sẽ gây vôi hoá nhau thai, còn ở trẻ thì gây chán ăn, mệt mỏi, nôn ói, xương hoá sụn sớm. Ở nước ta, có nhiều trường hợp trẻ uống quá liều vitamin A, D bị tác dụng phụ phải đưa đến bệnh viện cấp cứu. Hàng ngày, trẻ chỉ nên uống 2.500 đơn vị quốc tế (IU) vitamin A và 400 IU vitamin D, còn người lớn thì không được quá 5.000 IU vitamin A/ngày và 400 IU vitamin D/ngày. Để không quá liều, nên uống từng đợt cách quãng, nghĩa là sau khi uống ba tuần phải ngưng 1 – 2 tuần nếu muốn tiếp tục. Không dùng khi trẻ đã được cơ sở y tế cho uống vitamin A liều cao theo chương trình chống mù loà ở trẻ.
Vẫn phải cho trẻ ăn đầy đủ chất béo (mỡ, dầu thực vật) và uống vitamin A, D ngay sau khi ăn để thuốc dễ hấp thu hơn.
Dầu cá chứa axít béo omega-3, omega-6
Omega-3 và omega-6 là hai loại axít béo được cho tốt cho tim mạch do người ta nhận thấy người Eskimo hiếm bị bệnh động mạch vành (động mạch vành bị hẹp bít do cặn mỡ), mà dân tộc này ăn rất nhiều cá có chứa axít béo omega-3, omega-6. Nhiều công trình nghiên cứu chứng tỏ DHA (viết tắt của docosahexaenoic axít là chất mà axít omega-3 tạo thành trong cơ thể) được bổ sung có thể làm giảm triglycerid trong máu, giảm tỷ lệ bệnh động mạch vành, giảm tỷ lệ nhồi máu cơ tim.
Dầu cá chứa omega-3, omega-6 hiện được lưu hành dưới dạng thực phẩm chức năng, nhưng vẫn phải dùng đúng liều lượng theo hướng dẫn thì mới an toàn. Ở đây, đương sự không biết “dầu cá” chỉ có tác dụng hỗ trợ, còn có nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến sức khoẻ. Nếu chế độ dinh dưỡng không tốt, ăn quá thừa năng lượng như nhiều dầu mỡ, uống nhiều bia rượu, hoặc người đó đã nhuốm bệnh rối loạn lipid huyết thì dù uống bao nhiêu dầu cá vẫn bị tăng lipid trong máu.
Tóm lại, để phòng chống bệnh tật ta nên góp phần chống ô nhiễm môi trường, vệ sinh cá nhân thật tốt, dinh dưỡng đầy đủ và đúng cách (tránh ăn uống quá thừa năng lượng, ăn nhiều rau quả, trái cây…), vận động hợp lý và nghỉ ngơi đầy đủ, tránh nghiện rượu, thuốc lá, phòng các bệnh viêm nhiễm, có cuộc sống lành mạnh giúp thư thái, lạc quan, yêu đời. Nếu có điều kiện, có thể dùng các loại dầu cá với ý thức thận trọng như dùng thuốc (đúng cách, đúng liều lượng).
Theo PGS.TS.DS Nguyễn Hữu (Sài Gòn tiếp thị)
Dùng nhiều dầu cá có nguy cơ chảy máu não
Người ta tin rằng, ăn cá và dầu cá chứa omega 3 tốt cho sức khoẻ, nhưng thực tế, ăn cá cũng có hại và dầu cá có thể làm tăng nguy cơ chảy máu não, tăng mức đường trong máu...
PGS.TS Nguyễn Quang Tuấn, Trưởng khoa C4, Viện Tim mạch Quốc gia cho biết, người ta ngày càng quan tâm nhiều đến những tác dụng có lợi của axit béo n-3 và tin rằng, những chất này bảo vệ thành mạch máu khỏi tác dụng có hại của LDL- cholesterol xấu. LDL là loại cholesterol gây hại nhất, đặc biệt khi kết hợp với ôxy nó còn nguy hiểm hơn.
Một chế độ ăn giàu chất béo có khuynh hướng thúc đẩy sự ôxy hóa LDL. Axit béo omega-3 giúp ngăn chặn quá trình này xảy ra.
Nó cũng ảnh hưởng tới các tác nhân gây xơ vữa, giúp ngăn chặn hình thành cục máu đông và sự co thắt mạch vành, làm tăng lượng EDRF hay yếu tố làm giãn mạch máu có nguồn gốc từ các tế bào nội mạc.
Theo PGS.TS Nguyễn Quang Tuấn, axit béo omega-3 được tìm thấy nhiều trong dầu cá, nhưng bên cạnh đó còn có ở ngũ cốc, đậu, tảo biển và các sản phẩm của đậu nành. Nên sử dụng axit béo n-3 từ những nguồn thức ăn thực vật hơn là từ cá.
Bởi cá tuy có nhiều EPA (axit béo không no) nhưng cũng chứa nhiều chất béo bão hòa và cholesterol nên cá và dầu cá có khuynh hướng làm tăng LDL. Dầu cá chứa nhiều EPA hơn ngũ cốc và các sản phẩm từ đậu nành, điều này có thể làm tăng nguy cơ chảy máu não.
Với những người mắc bệnh tiểu đường, dầu cá có thể gây đề kháng insulin và tăng mức đường máu.
GS.TS Bùi Minh Đức, Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho hay, rối loạn và tăng lipit huyết, tăng cholesterol huyết và xơ vữa động mạch có liên quan chặt chẽ tới nguy cơ gây bệnh tim, mạch vành.
Biện pháp chủ động đề phòng và điều trị tốt nhất là giảm lượng chất béo ăn vào dưới 20 - 30%, axit béo bão hòa dưới 7-10%, lượng cholesterol dưới 150 - 200mg/ngày.
Bất kỳ loại chất béo nào, dù là chất béo được coi là tốt cho cơ thể như dầu hạt cải, oliu... cũng vẫn có hại bởi vì tất cả các loại chất béo đều bao gồm ba thành phần, bão hòa, không bão hòa đơn và không bão hòa đa.
Vì vậy, khẩu phần ăn có chứa nhiều axit béo omega 3 (DHA, EPA) cũng không tốt, có thể tác động ảnh hưởng đến sự phát triển ung thư vú và kết tràng dù nó vẫn được dùng để phòng ung thư.
Theo SKDS
Tầm quan trọng của chất béo Ăn nhiều chất béo sẽ nguy hiểm tới sức khỏe của con người. Ảnh minh họa Vai trò của chất béo trong chế độ ăn uống cho đến ngày nay vẫn gây nhiều tranh cãi giữa các bác sĩ, các chuyên gia dinh dưỡng. Một mặt, ăn nhiều chất béo là nguy hiểm tới sức khỏe của con người, mặt khác, cơ thể...