Đã tự chủ đại học thì lương đừng cào bằng, giảng viên phải sống được bằng nghề
Một giảng viên ở Việt Nam, một học kỳ có thể dạy 6, 7 hay 8 lớp – quá nặng, lấy đâu thời gian mà nghiên cứu, tiền lương cũng không tăng.
Tiến sĩ Phạm Long – Giảng viên Đại học Louisiana (Hoa Kỳ) đã chia sẻ một số quan điểm cá nhân của Tiến sĩ để hướng tới tự chủ đại học ở Việt Nam thành công.
Tòa soạn Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam xin giới thiệu bài viết đến độc giả.
Trường Đại học Mỹ và bài học cho Việt Nam
Trong các mối quan hệ ở cơ quan hay tổ chức bên ngoài, người Mỹ rất “chặt chẽ”, luôn căn cứ vào luật pháp, các quy định điều tiết, và những điều khoản đã ký kết trong hợp đồng/tài liệu. Nhìn chung, người Á Đông, thì vô cùng “linh hoạt”. Đó chính là sự khác biệt lớn.
Lấy một ví dụ đơn giản như sau, khi tuyển một giảng viên trong một trường đại học ở Mỹ, nếu hợp đồng quy định một học kỳ giảng 3 lớp (một năm 6 lớp), thì cứ thế mà tuân thủ cho đến khi về hưu. Nếu trường muốn người giảng viên đó dạy thêm một lớp, là phải xin ý kiến giảng viên, đồng thời lớp đó là overload và phải trả thêm tiền ngoài lương.
Tiến sĩ Phạm Long – Giảng viên Đại học Louisiana (Hoa Kỳ). Ảnh: Nhân vật cung cấp.
Ở Việt Nam, nhiều khi thấy “đồng cảm” với giảng viên quá. Một giảng viên một học kỳ dạy 6, 7 hay 8 lớp – quá nặng, lấy đâu thời gian mà nghiên cứu, tiền lương cũng không tăng. Các trường không nên đòi hỏi giảng viên phải có ISI/Scopus. Không nên chỉ nhìn “ngọn cây”, mà quên mất phải nuôi dưỡng “gốc cây”.
Chiến lược cho hệ thống đại học Việt Nam như sau. Các trường top, mỗi giảng viên một kỳ giảng một lớp, yêu cầu nghiên cứu khắt khe, đăng công trình trên tạp chí rất tốt. Các trường nhóm 2 (nhóm trường tốt và tiệm cận ở mức tinh hoa, ở đó các giáo sư vừa phải giảng dạy tốt và đồng thời cũng phải chú trọng nghiên cứu ở một chừng mực nào đó), mỗi giảng viên một kỳ giảng 2 lớp, yêu cầu nghiên cứu nghiêm túc, công trình đăng trên tạp chí tốt.
Các trường nhóm 3 (nhóm trường lấy trọng tâm là giảng dạy, ở đó giảng dạy tốt và trang bị được các kỹ năng ứng dụng thực tiễn cho sinh viên để sinh viên tốt nghiệp có thể hoà nhập và làm việc hiệu quả ngay là thành công rồi), mỗi giảng viên một kỳ giảng 3 lớp, yêu cầu nghiên cứu, công trình đăng trên tạp chí tiệm cận tốt.
Video đang HOT
Cuối cùng, các trường nhóm 4, mỗi giảng viên một kỳ giảng 4 lớp, chất lượng giảng dạy là tiêu chuẩn đánh giá số 1, nghiên cứu cho có “gia vị”, để cuộc sống thêm vui.
Muốn vậy, trường đại học phải có một chiến lược cụ thể, phải có chính sách, văn bản, và làm việc dựa trên hợp đồng ký kết và tuân thủ giữa trường và giảng viên, không được linh hoạt “ngất trời”! Quan trọng hơn là phải đảm bảo người giảng viên sống được bằng nghề của mình.
Ảnh minh họa, nguồn: TDTU.
Muốn sống được bằng nghề, trước mắt các trường đại học ở Việt Nam phải thu hút sinh viên đến học ở trường. Tự chủ rồi, hãy đem phần lớn cái bánh “học phí” mà chia cho chính giảng viên, cuộc sống sẽ tươi đẹp hơn rất nhiều!
Đã tự chủ thì cần dỡ bỏ toàn bộ hệ thống lương theo cấp bậc “tuyến tính”
Hãy “dỡ bỏ” tư duy truyền thống lạc hậu ở nhiều lĩnh vực thì mới có cơ hội thành công. Mấu chốt là phải đảm bảo cuộc sống tốt cho giảng viên trẻ khi bắt đầu sự nghiệp giảng viên; để họ hứng khởi, yên tâm công tác, và có nhiều động lực, hoài bão trên bước đường giảng dạy và nghiên cứu.
Thu nhập cho họ khi bắt đầu là giảng viên phải theo đúng tín hiệu của “thị trường”, tại thời điểm tuyển dụng. Lương là câu chuyện của từng cá nhân với trường, và hợp đồng tuyển dụng là những điều khoản pháp lý mà cá nhân và trường phải tuân thủ.
Nói thẳng ra luôn: Lương (thu nhập) của họ (đã có bằng tiến sĩ) khi được tuyển dụng nên tiệm cận hay tương đương với mức của các giáo sư lâu năm trong trường, thậm chí có thể cao hơn, vì các mức giá cả trên các thị trường đã thay đổi theo hướng tăng.
Mở rộng ra hơn nữa, đã tự chủ thì phải dỡ bỏ toàn bộ hệ thống lương theo cấp bậc “tuyến tính” đi. Tự chủ tức không có sự cào bằng, không nên duy trì lương tiến sĩ thì như nhau, lương phó giáo sư như nhau, lương giáo sư như nhau.
Chính cái “như nhau” này đang cản trở sự phát triển của các trường đại học. Tư duy phải hướng tới lương tiến sĩ trong danh sách tuyển dụng mới có thể cao (thấp) hơn cả lương giáo sư đang làm việc trong trường, tuỳ ngành, tuỳ lĩnh vực, và cung cầu trên thị trường ở thời điểm tuyển dụng.
Bỏ luôn cả phụ cấp/hệ số lãnh đạo đi. Duy trì những cái này là không công bằng, là phân biệt đối xử.
Tất cả hãy quy ra lương, và chỉ lương mà thôi, cho từng vị trí. Khi trường “làm ăn” tốt, tất cả mọi người được tăng định kỳ một con số phần trăm như nhau. Khi trường “làm ăn” không tốt, tất cả giảng viên đều đồng loạt bị giảm một con số phần trăm như nhau; tiếp tục không tốt, phải sa thải theo thứ tự phân loại.
Để tạo động lực cho mọi người cống hiến và có thành tích cao trong từng lĩnh vực, nên xây dựng một danh mục các hoạt động khuyến khích và cơ chế thưởng rõ ràng, minh bạch. Danh mục các hoạt động khuyến khích này là nền tảng để các giáo sư lâu năm và giảng viên trẻ có bằng tiến sĩ thực sự tương tác, hợp tác, hay thậm chí “cọ xát” lành mạnh, trên bước đường hướng tới thu nhập cao, nếu muốn.
Tự chủ đại học là tất yếu - vướng đâu gỡ đó?
Cho đến thời điểm này, việc khẳng định tự chủ đại học là xu thế tất yếu đã thể hiện, chứng minh bằng thực tiễn, nhiều trường đã có những bước tiến vượt bậc.
LTS: Tự chủ đại học được nhiều trường thực hiện từ nhiều năm nay. Trong đó, có trường thực hiện ở từng khâu, từng khoa, từng bộ phận, có trường thực hiện toàn bộ. Nhưng thực hiện như thế nào thì tự chủ đại học cũng chứng minh được hiệu quả của nó về chất lượng đào tạo, về sự hội nhập với đào tạo đại học của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Tự chủ đại học ở một góc độ khác còn là sự xã hội hóa công tác đào tạo một cách thiết thực, hiệu quả để người học tham gia đóng góp vào quá trình phát triển của các nhà trường. Gần đây, nhất là sau sự việc lùm xùm ở Đại học Tôn Đức Thắng, vấn đề về tự chủ đại học lại được đặt ra một cách mạnh mẽ. Tuy nhiên, khác những lần bàn thảo trước, lần này, bàn thảo là để chỉ ra những vướng mắc và hướng tháo gỡ, để tự chủ đại học tiếp tục phát triển.
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ đề cấp đến vấn đề hiệu quả từ tự chủ đại học.
Giảng viên và sinh viên Đại học Quốc tế- Đại học Quốc gia TP HCM trong phòng thí nghiệm.
Cho đến thời điểm này, việc khẳng định tự chủ đại học là xu thế tất yếu đã thể hiện, chứng minh bằng thực tiễn. Từ những trường đại học công lập thuộc Bộ Giáo dục- Đào tạo như Đại học Kinh tế TP HCM, Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM đến các trường trực thuộc các bộ ngành như Đại học Công nghiệp, Đại học Tài chính- Marketing... đều có bước phát triển đáng kể.
Dễ nhận thấy nhất là từ cơ sở vật chất ban đầu được trang bị, các trường có sự đầu tư theo từng năm học, từng ngành học để đến nay có điều kiện dạy và học hiện đại. Tiếp đó là việc mở ra hàng loạt ngành đào tạo theo nhu cầu của thị trường lao động và của người học. Các ngành này được đầu tư ngay từ khi mở ra với trang thiết bị hiện đại, đội ngũ giảng viên chất lượng cao... Vì các trường được quyền tự chủ trong mời và trả lương giảng viên, tự chủ trong đào tạo và tạo điều kiện cho đào tạo, tự chủ quyết định những ngành mũi nhọn, hướng đào tạo mũi nhọn của mình.
Tiến bộ cả trong đào tạo và nghiên cứu khoa học
Trong các trường thành viên của Đại học Quốc gia TP HCM, có Đại học Quốc tế thành lập vào tháng 12/2003, được tự chủ tài chính từ năm 2008 và hiện nay đang hướng đến tự chủ toàn diện. Đây trường đại học công lập đầu tiên sử dụng tiếng Anh làm ngôn ngữ chính trong việc giảng dạy và nghiên cứu. Đến nay, trường có hơn 8.800 sinh viên, gần 600 học viên, nghiên cứu sinh bậc sau đại học, góp phần cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao. Hiện nay, học phí của Đại học Quốc tế có cao hơn mặt bằng chung của các trường chưa tự chủ, nhưng đổi lại, điều kiện học tập và nghiên cứu của cả sinh viên lẫn giảng viên đều trội hơn hẳn.
Chung Minh Nhật sinh viên năm thứ 4 khoa Công nghệ thông tin của trường này cho rằng, mức học phí mà Nhật đóng cho nhà trường là chấp nhận được và hoàn toàn xứng đáng với những gì mà em nhận được: "Học phí hơi cao, nhưng em thấy văn hóa học tập năng động và em có rất nhiều cơ hội nghiên cứu và học tập khi vào trường. Với em, với các cơ hội nghiên cứu, học tập, làm việc theo nhóm nghiên cứu, có các bạn ở các khoa, các bộ môn khác nhau, em cảm thấy em nhận được nhiều hơn".
Giáo sư- Tiến sĩ Võ Văn Tới cùng sinh viên giới thiệu các sản phẩm nghiên cứu khoa học của Khoa Kỹ thuật Y sinh, Đại học Quốc tế.
Đại học này hiện có 63% giảng viên trình độ tiến sĩ, thư viện với 33.000 đầu sách, 45 phòng thí nghiệm hiện đại, mỗi năm có 500 bài công bố nghiên cứu khoa học và bài báo trên các tạp chí khoa học quốc tế. Thu nhập của giảng viên, nhân viên cao hơn các đại học công lập khác và thấp hơn mức một số trường đại học dân lập nhưng có thể sống được bằng nghề của mình, có thể dành toàn thời gian hướng dẫn sinh viên và nghiên cứu khoa học. Thực tế, để thu hút được người giỏi về làm việc, các trường tự chủ cần tạo ra được môi trường làm việc tốt nhất, điều kiện thúc đẩy nghiên cứu khoa học tốt nhất và trả lương ở mức chấp nhận được.
GS.TS Võ Văn Tới, người thúc đẩy thành lập Bộ môn Kỹ thuật Y sinh của trường Đại học Quốc tế, Đại học Quốc gia TP HCM cho biết: "Trường Đại học Quốc tế tự chủ tài chính có lợi thế là mức lương đủ đề thu hút nhiều nhân tài. Trong trường, đặc biệt là Khoa Kỹ thuật Y sinh đầu tư về điều kiện làm việc cho giảng viên rất tốt, các phòng thí nghiệm của Khoa cũng rất tốt. Đó là một yếu tố để thu hút giảng viên về và gắn bó".
Tăng dần quyền tự chủ đại học
Cả nước hiện có 240 trường đại học, học viện. Năm 2014, theo Nghị quyết 77 của Chính phủ, có 23 cơ sở giáo dục đại học bắt đầu được thí điểm tự chủ tương đối toàn diện. Theo Tiến sĩ Nguyễn Đức Nghĩa, nguyên Phó giám đốc Đại học Quốc gia TP HCM, thực ra, cụm từ tự chủ đại học xuất hiện từ năm 1996, từ khi 2 đại học quốc gia ra đời, nghĩa là đến nay đã 25 năm. Mô hình quản trị đại học có nhiều chuyển biến, tăng quyền chủ động và trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục đại học: "Trong bước đầu tự chủ đại học đã có những chuyển biến rõ rệt, tăng quyền chủ động và trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục đại học. Đến nay các trường tham gia thí điểm tự chủ đã có sự bứt phá trong đào tạo và nghiên cứu, góp phần tạo diện mạo mới trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam".
Tại kỳ họp Quốc hội vừa mới kết thúc, trong đó, khi trả lời chất vấn của đại biểu về tự chủ đại học, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cũng đánh giá: Chúng ta đã thực hiện tự chủ đại học nhưng mới được một số bước, còn phải thực hiện tiếp tục và đây là một quá trình. Thời gian qua chúng ta đã thực hiện tự chủ đại học và đã đạt được kết quả rất tốt. Gần đây nhất, khi phát biểu với hàng ngàn giảng viên, sinh viên của Đại học Quốc gia TP HCM, Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh cũng nhấn mạnh đến tự chủ đại học.
Có thể thấy, Chính phu va nganh Giáo dục- Đào tạo đeu đa khang đinh tu chu đai hoc phai la cau chuyen bat buoc chu khong con la su khuyen khich nhu truoc nua. Trong nhung nam gan đay, chung ta thay quyen tu chu cua cac truong đa đuoc noi rong dan, tu Nghị định số 43 năm 2006 của Chính phủ ve tu chu tai chinh đoi voi đon vi su nghiep cong lap đen Nghị quyết số 40 năm 2012 ve Chuong trinh hanh đong cua Chinh phu trong đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công...cho thấy trong xay dung chinh sach đeu theo xu huong thúc đẩy tự chủ đại học. Hiệu quả thực tiễn trong đào tạo và nghiên cứu khoa học của các trường được tự chủ là động lực để các trường khác mạnh dạn thực hiện tự chủ từng bước hoặc toàn diện cho phù hợp./.
Tạm 'khóa' đề xuất tăng học phí ở đại học công lập tự chủ tài chính Báo cáo của kiểm toán Nhà nước cũng cho thấy một trường đại học công lập tự chủ tài chính chưa thực sự chú trọng công tác đổi mới nâng cao chất lượng chương trình đào tạo. Kiểm toán Nhà nước đã kiến nghị tạm dừng tăng mức thu học phí cho đến khi ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật...