Cuộc truy lùng nữ người mẫu khát m.áu bậc nhất của Hittler
Nữ quản ngục Jenny-Wanda Barkmann được biết đến với cả vẻ đẹp và sự t.àn á.c trong thời gian làm việc ở trại tập trung Stutthof trước khi bị t.reo c.ổ vì tội ác của mình vào năm 1946.
Bước ngoặt tội ác
Sự khủng khiếp của các trại tập trung của Đức Quốc xã đã được ghi lại rõ ràng trong suốt lịch sử, khi có các cuộc đàn áp t.àn á.c đối với người Do Thái ở châu Âu và các dân tộc bị hắt hủi khác đã trở thành một bài học đau thương trong nhiều năm kể từ Thế chiến II. Nhưng trong khi nhân loại chú ý nhiều đến những người đàn ông phải chịu trách nhiệm cho những tội ác khủng khiếp này, thì ngoại lệ nữ cai ngục như Jenny-Wanda Barkmann lại là một trong số những người t.àn á.c nhất.
Những phụ nữ như Barkmann, Irma Grese và Elisabeth Volkenrath đều trở nên khét tiếng tại các trại tập trung vì sự tàn bạo của họ. 21 kẻ cai ngục cuối cùng đã phải đối mặt với giá t.reo c.ổ, bao gồm cả Barkmann, người được mệnh danh là “ Bóng ma xinh đẹp”.
Được biết đến với vẻ đẹp và sự t.àn á.c của mình, người mẫu trẻ t.uổi từng là lính canh tại trại tập trung Stutthof. Mặc dù cô ta đến Stutthof vào năm 1944 – và chiến tranh chỉ kết thúc một năm sau đó – Jenny Barkmann đã nhanh chóng nằm trong số những kẻ độc ác nhất của Đức Quốc xã.
Jenny-Wanda Barkmann đứng trước trại tập trung Stutthof.
Làm thế nào Jenny-Wanda Barkmann trở thành “Bóng ma xinh đẹp”
Jenny-Wanda Barkmann sinh ngày 30/5/1922 tại Hamburg, Đức. Mặc dù cô ta có một t.uổi thơ bình thường, nhưng cũng trưởng thành cùng với sự trỗi dậy của chủ nghĩa Quốc xã. Ngay trước khi Barkmann tròn 11 t.uổi, Adolf Hitler trở thành Thủ tướng Đức. Khi cô 16 t.uổi, nhà cửa, cơ sở kinh doanh và giáo đường của người Do Thái đã bị tấn công trong thời kỳ Kristallnacht, bao gồm cả ở Hamburg. Ngay sau đó, Hitler xâm chiếm Ba Lan và Thế chiến II bắt đầu.
Theo tư liệu của Mémoires de Guerre, Barkmann ban đầu hy vọng sử dụng vẻ đẹp của mình để trở thành người mẫu thời trang. Nhưng khi chiến tranh kéo dài, cô đã thay đổi quyết định. Năm 1944, cô gái 21 t.uổi trở thành Aufseherin (còn gọi là nữ quản ngục) tại trại tập trung Stutthof ở Gda-sk, Ba Lan.
Nguồn tin khác cho biết, cha cô là một công nhân đóng tàu bình thương, còn mẹ cô là một người nội trợ. Khi còn nhỏ, Jenny không khác gì các bạn cùng trang lứa – cô cũng chơi đùa với búp bê và mơ ước trở thành diễn viên.
Sau giờ học, cô gái thường được ưu ái nhờ vẻ ngoài rất hấp dẫn, bắt đầu tham gia làm người mẫu thời trang. Chiến tranh bùng nổ không làm thay đổi kế hoạch của cô và Barkmann đã chụp hình thành công cho các tạp chí và các chương trình quảng cáo của Đức. Nhưng đầu năm 1944, một bước ngoặt đã xảy ra trong cuộc đời của người đẹp. Jenny bất ngờ từ bỏ công việc người mẫu và nhận công việc quản giáo tại trại tập trung Stutthof, nằm gần Danzig.
Người ta không biết chính xác điều gì đã thôi thúc cô gái 21 t.uổi kiếm được công việc ở địa ngục này. Có lẽ, cô ấy đã bị thu hút bởi nguồn thu nhập cao của lính quản giáo và cơ hội phát triển nghề nghiệp. Hoặc có thể có mong muốn có quyền lực đối với mọi người đã thức tỉnh trong con người Barkmann. Dù sao đi nữa, Jenny đã vượt qua cuộc phỏng vấn thành công và được nhận vào đội ngũ quản ngục.
Trại tập trung Stutthof sau khi được giải phóng, tháng 5/1945.
Video đang HOT
Ngay từ những ngày đầu tiên làm việc, cựu người mẫu đã tỏ ra sốt sắng phục vụ và đặc biệt nghiêm túc với công việc. Nạn nhân chính của Stutthof là phụ nữ và t.rẻ e.m mang quốc tịch Do Thái và Ba Lan. Barkmann đ.ánh đ.ập tù nhân không thương tiếc và tống hàng chục người vào phòng hơi ngạt. Jenny đã thể hiện trí tưởng tượng đáng kinh ngạc, t.ra t.ấn nạn nhân của mình và đôi khi khiến cả đồng nghiệp của cô bị sốc. Cô nhanh chóng tự khẳng định mình là một trong những Aufseherin tàn bạo nhất của trại Stutthof.
Cô không ngần ngại đ.ánh đ.ập tù nhân – đôi khi đến c.hết – và thường xuyên đưa phụ nữ và t.rẻ e.m vào phòng hơi ngạt, những người mà cô và các lính canh khác thấy quá yếu hoặc ốm yếu để làm việc.
Bề ngoài, người quản ngục Barkmann trông giống như một sinh viên thông minh mong manh và sự tương phản bên trong này càng khiến cô ấy trở nên khủng khiếp hơn. Số lượng nạn nhân chính xác của “Mad Jenny” vẫn chưa được biết rõ, nhưng có tư liệu nói rằng cô ấy có liên quan đến cái c.hết của hàng trăm tù nhân và tự tay g.iết hàng chục người khác. Một hoạt động kinh khủng như vậy khiến vào năm 1945, ngay khi quân đội Liên Xô bắt đầu tiếp cận Stutthof, kẻ s.át n.hân đã bỏ trốn.
Trong suốt cuộc chiến, Bảo tàng Tưởng niệm Holocaust của Hoa Kỳ báo cáo rằng, có tới 100.000 người đã bị trục xuất đến Stutthof và khoảng 60.000 người đã c.hết ở đó. Nhiều người đã c.hết vì các bệnh như sốt phát ban. Nhưng nhiều người khác đã bị lính canh trại gửi đến phòng hơi ngạt. Năm 1944, Barkmann trở thành một trong những người canh trại này. Cô ta là một trong số 3.700 phụ nữ đảm nhận vị trí như vậy – trong tổng số 55.000 lính canh trong các trại tập trung của Đức Quốc xã – xinh đẹp và tàn bạo, Jenny-Wanda Barkmann được mệnh danh là “Bóng ma xinh đẹp”.
Sự sụp đổ
Vào thời điểm Jenny-Wanda Barkmann đang đảm bảo danh tiếng của mình tại Stutthof, Thế chiến II đã bắt đầu kết thúc. Tháng 4/1945, Adolf Hitler t.ự s.át ở Berlin. Một tháng sau, quân Đức đầu hàng. Và Barkmann, “Bóng ma xinh đẹp” liền chạy khỏi Stutthof và lẩn trốn.
Jenny-Wanda Barkmann trở thành một trong những tội phạm Đức Quốc xã bị truy nã gắt gao nhất. Nhưng ả vẫn tìm cách trốn tránh công lý thành công trong 4 tháng. Cô ta đã ở đâu trong thời gian này và ai đã giúp đỡ nữ tội phạm, cuộc điều tra không thể tìm ra. May mắn thay, hồ sơ cá nhân của kẻ tàn bạo có một bức ảnh được lưu giữ trong trại tập trung, và bên cạnh đó, các tù nhân nhớ rất rõ về cô ta. Hình ảnh và hồ sơ mô tả về “Mad Jenny” đã được gửi đi khắp châu Âu và chẳng mấy chốc ả đã bị sa lưới.
Barkmann rơi vào tay một đội tuần tra quân sự tại nhà ga xe lửa Gdansk khi cô chuẩn bị rời Ba Lan. Trong cuộc thẩm vấn, Barkmann khai rằng cô luôn đối xử tốt với các tù nhân Do Thái, thậm chí còn nói rằng, cô đã cứu một số người trong số họ khỏi cái c.hết. Nhưng những người thẩm vấn cô ấy cuối cùng đã nhìn thấu hành động của ả ta.
Hình ảnh “con quái vật đến từ Stutthof” hoàn toàn không phù hợp với ngoại hình và cách cư xử của một cô gái khiêm tốn. Barkmann thậm chí còn đ.ánh lừa được một trong những cai ngục. Hạ sĩ của quân đội Ba Lan, Joseph Lyas, một người Do Thái, thấm nhuần những câu chuyện của cô gái đến nỗi anh bắt đầu đồng cảm với cô. Tên tội phạm Đức quốc xã cầu xin Lyas cho cô ra ngoài chỉ trong vài giờ. Theo cô gái, điều này sẽ đủ thời gian để thu thập bằng chứng về sự vô tội. Nhưng viên hạ sĩ đã kịp thời xem tài liệu của vụ án về Barkmann với những bức ảnh rùng rợn về các nạn nhân của ả và không mắc phải sai lầm c.hết người.
Những gì anh nhìn thấy đã khiến Joseph Lyas phẫn nộ vì cha mẹ và nhiều bạn bè của anh đã c.hết trong các trại tập trung của Đức. Viên hạ sĩ không nói chuyện với Jenny nữa, và cơ hội trốn thoát cuối cùng của kẻ thủ ác tan biến như mây khói.
Thật vậy, hàng chục người sống sót ở Stutthof đã làm chứng chống lại Barkmann trước tòa, mô tả những tội ác tàn bạo mà cô ta đã phạm phải với tư cách là một Aufseherin. Ngay cả luật sư của cô ta cũng thừa nhận rằng Barkmann có tội, nhưng lập luận rằng đó là do cô ấy bị bệnh tâm thần – anh ta tuyên bố rằng một người bình thường không thể phạm tội ác như Barkmann gây ra. Đặc biệt là vì cô ấy không có lý do gì để ghét bất cứ ai. Nhưng Barkmann trông không giống người điên. Cô ta phản ứng trước mọi lý lẽ của luật sư.
Nữ s.át n.hân Jenny-Wanda Barkmann (ngồi sau bên phải) tại phiên xét xử.
Kẻ g.iết n.gười thực tế đã không giúp ích gì cho chính cô ấy. Đối mặt với cáo buộc tàn bạo và g.iết n.gười, Barkmann đáp lại bằng một tràng cười khinh khỉnh. Cô ta không cầu xin sự tha thứ. Cô ấy không bao giờ rơi một giọt nước mắt hay tỏ ra hối hận. Lời cuối cùng của kẻ tội phạm trước tòa là: “Cuộc sống thực sự là một niềm vui lớn, và niềm vui, như một quy luật, không kéo dài lâu”.
Sáng sớm ngày 4/7/1946, Barkmann cùng với 10 tội phạm chiến tranh khác bị đưa đến nơi hành quyết trên Đồi Biskup gần Gdansk. Hơn 200 nghìn người đã tụ tập ở đó để xem cái c.hết của những tên đao phủ đáng nguyền rủa. Nhiều người từ xa đến để chứng kiến cái c.hết của những kẻ đã h.ành h.ạ họ và những kẻ hành quyết người thân và bạn bè của họ. Hạ sĩ Joseph Lyas cũng đứng trong đám đông khán giả. Không ai bận tâm đến đám tội phạm ở Gdansk bằng ở Nuremberg. Một đao phủ chuyên nghiệp thậm chí còn không dám tham gia vào vụ hành quyết. Những kẻ bị kết án bị đưa lên giá t.reo c.ổ lớn trên những chiếc xe tải, cổ họ bị quàng thòng lọng, sau đó chiếc xe lao đi. Khi đến lượt Barkmann, chiếc xe không muốn khởi động. Sự cố gây ra tiếng xì xào trong đám đông. Sau đó, một cựu tù nhân của Stutthof chạy lên xe và đẩy Jenny ra khỏi xe. Jenny-Wanda Barkmann c.hết ngay lập tức. Cô ta khi ấy 24 t.uổi.
Khi t.hi t.hể cô ấy đung đưa trong gió, rất nhiều người trong đám đông đổ xô đến tiếp cận t.hi t.hể, cố gắng xé một mảnh vải hoặc giành một chiếc cúc áo để giữ làm kỷ niệm. Cuối cùng, t.hi t.hể của cô ta được gửi đến Khu Giải phẫu ở Gdansk, cùng với t.hi t.hể của những tên tội phạm khác, để dùng làm phương tiện hỗ trợ thị giác cho các sinh viên y khoa. Sau đó được xử lý như chất thải sinh học, ít nhất mang lại một số lợi ích cho xã hội.
Nhưng lòng căm phẫn vẫn dành cho Jenny-Wanda Barkmann rất lớn, và có thời điểm, tin đồn lan truyền rằng, t.hi t.hể cô thực sự đã được hỏa táng và tro cốt được đưa về quê hương Hamburg của Barkmann. Tin đồn cũng cho rằng tro cốt của cô sau đó được đổ vào bồn cầu và xả nước. Tất nhiên, đó chỉ là một tin đồn.
Quá khứ t.àn á.c và đau thương tạo nên một bộ phim truyền hình mới gây tranh luận do Kenley Smith viết kịch bản và đạo diễn có tên “Maidens”. Tác phẩm phản kháng đã được phát triển và đưa vào sản xuất lần đầu tiên trên toàn thế giới về mặt nghệ thuật tại Nhà hát Darkhorse bởi Tennessee Playwrights Studio. Kịch bản có thể lấy bối cảnh trong quá khứ, nhưng như nhà viết kịch đã lưu ý trong chương trình: “Chủ nghĩa phát xít đang ở đâu đó”. Nó luôn luôn như vậy, và nó tự bộc lộ khi chúng ta cho phép một kẻ mị dân khơi dậy nỗi sợ hãi và lòng căm thù của chúng ta. Đáng buồn thay, “Maidens” đã trở nên thịnh hành như đã từng xảy ra vào năm 1946.
Francis Foley: Vị bồ tát của thời kỳ diệt chủng
Trong thời gian làm việc tai Đại sứ quán Anh ở Berlin, Francis Edward Foley, sĩ quan Cục Tình báo mật (MI.6) đã giúp hơn 10.000 người Do Thái thuộc các thành phần khác nhau, từ giáo sư đến người bình thường, rời khỏi Đức Quốc xã và lôi kéo nhiều gián điệp Đức về phía Anh.
Sau chiến tranh, điệp viên MI.6 Francis Foley đã phát hiện ra một mạng lưới tân phát xít ở Đức. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc chiến công thầm lặng nhưng vĩ đại của ông.
Vào một buổi sáng tháng 4/1938, nhà luyện kim Áo Paul Rosbaud đến Đại sứ quán Anh ở Berlin. Ông muốn xin thị thực cho bà vợ người Do Thái và cô con gái của mình để cứu họ thoát khỏi bọn Đức Quốc xã. Nhân viên làm hộ chiếu Francis Foley hứa sẽ giúp đỡ - Rosbaud biết Francis Foley làm việc tại Đại sứ quán Anh dưới vỏ bọc, thực ra ông phục vụ trong cơ quan tình báo Anh.
Một thời gian sau, vợ và con gái của Rosbaud quả thực đã đến được London. Bản thân nhà khoa học vẫn ở lại Đức và tràn đầy quyết tâm chống lại chế độ quốc xã. Trong Thế chiến II, ông đã cung cấp nhiều thông tin về chương trình hạt nhân của Đức cho các cơ quan tình báo Anh. Về phần Foley, bà Rosbaud là một trong số hàng nghìn người Do Thái được ông giúp chạy khỏi chế độ Đức Quốc xã.
Francis Edward Foley sinh năm 1884 trong gia đình một công nhân đường sắt người Anh. Hồi trẻ, ông dự định trở thành linh mục, sau đó - chuyên gia về thời cổ đại, nhưng Thế chiến I đã thay đổi kế hoạch của Foley, ông tốt nghiệp Trường Cao đẳng Quân sự Hoàng gia tại Sandhurst và ít lâu sau gia nhập Trung đoàn bộ binh Hertfordshire. Tháng 9/1917, Foley bị thương nặng. Sau sáu tuần điều trị tại bệnh viện, rõ ràng, sức khỏe không cho phép ông ra t.iền tuyến nữa. Lúc bấy giờ, là người rất giỏi tiếng Đức và tiếng Pháp, Foley gia nhập quân đoàn tình báo quân đội Anh và nhanh chóng được Cục Tình báo mật (MI.6) tuyển mộ. Đầu những năm 1920, ông được cử sang làm việc tại Đại sứ quán Anh ở Berlin dưới vỏ bọc ngoại giao.
Trước năm 1933, Foley chủ yếu tham gia thu thập thông tin về những người Đức hợp tác với Đảng Bolshevik và theo dõi hoạt động của các nhân viên tình báo Liên Xô ở Berlin. Khi bọn Đức Quốc xã lên cầm quyền, ông được giao nhiệm vụ thu thập thông tin về các công trình quân sự của Đức.
Foley và vợ, Kay, thuê một căn hộ ở Wilmersdorf, khu vực có nhiều người Do Thái thuộc tầng lớp trung lưu sinh sống. Chứng kiến "Binh đoàn bão táp" (Sturmabteilung) của Đảng Quốc xã đàn áp d.ã m.an người Do Thái, ông kinh hoàng trước tình cảnh tuyệt vọng mà người Do Thái bị chính quyền đẩy vào.
Chiếc tàu chở những người Do Thái rời khỏi Đức Quốc xã.
Năm 1935, sau khi Luật Nuremberg được thông qua, số người Do Thái tìm cách rời khỏi nước Đức tăng lên đột ngột. Hàng nghìn đơn xin phép vào Vương quốc Anh hoặc Palestine dưới quyền ủy trị của Anh được đặt trên bàn làm việc của Foley. Trong khi đó, số lượng cho phép rất hạn chế: người Anh cố gắng không đối đầu với Đức Quốc xã lẫn người Palestine. Foley có thể thẳng thừng từ chối - xét cho cùng, đây là quyết định của chính phủ Anh. Nhưng thay vào đó, ông đã sử dụng mọi cơ sở pháp lý có thể và những kẽ hở trong các quy định nhập cư của Anh để tạo cơ hội cho người Do Thái có được thị thực rời khỏi Đức. Thậm chí Foley giấu những người Do Thái trong nhà mình và sử dụng các kỹ năng và quan hệ của mình để giúp họ có được hộ chiếu và thị thực.
Chẳng hạn, theo lệnh của chính quyền Anh, để được định cư tại Palestine, một người phải trả 1.000 bảng Anh. Vào thời điểm đó, đây là một khoản t.iền lớn, nằm ngoài tầm với của nhiều người Do Thái, bởi t.iền tiết kiệm ngân hàng và các tài sản khác của họ đã bị chính quyền Đức Quốc xã đóng băng. Elisheva Lernau, một phụ nữ Do Thái, chỉ có thể trả 10 bảng Anh, nhưng Foley đã cấp cho bà thị thực đến Palestine, ông chỉ ghi chú rằng 990 bảng còn lại sẽ được trả ngay khi Lernau đến cảng Haifa. Hoặc Foley cho phép nhập cảnh trên cơ sở giấy cam đoan của người thân rằng t.iền sẽ được trả sau khi đương sự rời khỏi biên giới nước Đức. Tổng cộng, Foley đã cấp khoảng 10.000 thị thực và hộ chiếu.
"Những người Do Thái định chạy khỏi nước Đức xếp hàng dài bên ngoài lãnh sự quán Anh, hy vọng sẽ được cấp hộ chiếu hoặc thị thực, - bà Kay, vợ của Foley, nhớ lại. Ngày này sang ngày khác, chúng tôi thấy họ bám vào các bức tường của hành lang, chờ đến lượt mình. Một số người nổi cơn bực bội. Nhiều người đã khóc. Đối với họ, kết luận "có" hoặc "không" của Francis có nghĩa là bắt đầu một cuộc sống mới hoặc con đường dẫn đến trại tập trung. Francis và các trợ lý của anh ấy đã làm việc không ngừng nghỉ từ 7 giờ sáng đến 10 giờ đêm để giải quyết hết số đơn mà họ có thể".
Tháng 11/1938, sau sự kiện "Đêm thủy tinh" (Kristallnacht) ở Đức, 20.000 đàn ông Do Thái đã bị bắt và đưa đến các trại tập trung. Tháng 1/1939, người đứng đầu cơ quan an ninh của Đệ tam Đế chế, Reinhard Heydrich, đã ra lệnh thả các tù nhân Do Thái khỏi các trại tập trung, nếu họ có giấy tờ nhập cư. Foley đã lợi dụng cơ hội này: với tư cách nhân viên của Đại sứ quán Anh, ông đến thăm các trại tập trung của Đức và đưa ra khỏi đó những người nằm dưới sự bảo vệ của nước Anh. Làm điều đó, Foley đã mạo hiểm mạng sống của mình và những người thân trong gia đình: ông không có tư cách ưu đãi và miễn trừ ngoại giao.
Ngày 25/8/1939, một tuần trước khi Thế chiến II bùng nổ, Francis Foley được lệnh rời nước Đức. Ông đến Oslo để thành lập chi nhánh tình báo của MI.6 - và từ đấy lãnh đạo các điệp viên Anh ở lại Đệ tam Đế chế. Ngày 7/4/1940, Foley nhận được thông tin về kế hoạch tấn công Na Uy của Đức. Ông đã giúp bộ chỉ huy quân đội Na Uy liên lạc với Vương quốc Anh để thỏa thuận về việc viện trợ quân sự. Tuy nhiên, Đức Quốc xã đã sớm phá vỡ được sự kháng cự của quân đội Na Uy. Ngày 1/5, Foley được hạm đội Anh sơ tán từ Na Uy về London.
Một gia đình Do Thái được Foley cấp thị thực đến Anh.
Tháng 5/1941, Francis Foley được giao nhiệm vụ thẩm vấn phó lãnh tụ Rudolf Hess, thành viên hàng đầu của đảng Quốc xã. Vì lý do nào đó y đã một mình lái máy bay vượt qua eo biển La Manche và hạ cánh xuống Scotland. Chuyến bay kỳ lạ này đã kết thúc sự nghiệp chính trị của Hess. Foley đã "làm việc" với Hess suốt 10 tháng, nhưng không thuyết phục được y giải thích lý do của chuyến bay hoặc thu được thông tin nào có giá trị. Vợ của Foley nói rằng chồng bà đôi khi thậm chí còn ăn tối với Hess, tìm cách lấy lòng y. Kết quả thu được ngược lại: y rơi vào hoảng loạn vì sợ các cơ quan tình báo g.iết. Bà Kay nói: "Hess nghi thức ăn của mình bị nhiễm độc. Thế là Francis đổi đĩa cho y và uống cạn ly rượu vang của y. Francis tin chắc rằng y bị điên". Về sau, tại Tòa án Nuremberg, Hess bị kết án tù chung thân về tội ác chống lại hòa bình và bị chuyển tới nhà tù Spandau. Năm 1987, y t.ự t.ử ở t.uổi 93.
Tháng 6/1942, Foley tham gia chiến dịch tìm kiếm và thuyết phục gián điệp Đức hoạt động chống lại Đức Quốc xã. Kết quả là Foley đã làm việc với Johann Jebsen, một sĩ quan cấp cao của Abwehr, cơ quan tình báo quân sự và phản gián của Đệ tam Đế chế. Ngày 10/11/1943, Foley gặp Johann Jebsen ở Lisbon và nhận được rất nhiều thông tin về mạng lưới gián điệp của Đệ tam Đế chế cũng như tình hình nội bộ ở Đức.
Theo kế hoạch, Foley sẽ giúp Jebsen sơ tán đến Anh, nhưng ban lãnh đạo MI.6 cho rằng kế hoạch này quá mạo hiểm. Tháng 4/1944, Jebsen bị phản gián Đức bắt cóc ở Bồ Đào Nha và trục xuất về nước. Sau khi thẩm vấn, ông ta bị giải đến trại tập trung Oranienburg. Sự biến mất của Jebsen là một thất bại lớn đối với quân Đồng minh: Jebsen biết tên của các điệp viên hai mang khác được coi là cung cấp cho quân Đức thông tin đ.ánh lạc hướng kế hoạch đổ bộ ở Normandy. Tuy nhiên, Jebsen không tố giác ai và về sau ông ta b.ị g.iết trong trại tập trung Sachsenhausen.
Vào cuối Thế chiến II, Foley phụ trách bộ phận đặc biệt của MI.6 chuyên săn lùng các cựu thành viên của lực lượng vũ trang SS. Năm 1946, dưới sự lãnh đạo của ông, các cơ quan tình báo Anh đã tiến hành chiến dịch "Vườn ươm SS": Phát hiện và bắt giữ các cựu thành viên Đoàn thanh niên Hitler và Liên đoàn các cô gái Đức, những kẻ lên kế hoạch khôi phục chế độ Đức Quốc xã ở Đức.
Năm 1949, Foley nghỉ hưu và cùng với vợ định cư ở một thị trấn tỉnh lẻ. Ông qua đời năm 1958 ở t.uổi 73. Ông ra đi gần như lặng lẽ - chỉ một vài lá thư cảm ơn của những người được ông cứu sống đăng trên tờ "The Daily Telegraph". Chiến công của Foley chỉ được biết đến sau khi ông qua đời. Nhiều thập kỷ sau, năm 1999, nhà báo Michael Smith của "The Daily Telegraph" đã xuất bản cuốn sách "Francis Foley: điệp viên đã cứu 10.000 người Do Thái", dựa trên lời khai của những người đã được ông cứu sống và tài liệu cá nhân của nhà tình báo. Cuốn sách đã thu hút sự quan tâm của dư luận tới tên t.uổi người điệp viên mật này. Cùng năm đó, Trung tâm tưởng niệm các nạn nhân của Holocaust "Yad Vashem" đã công nhận Francis Foley là vị Thánh của các dân tộc trên thế giới.
Dần dần, chiến công của nhà tình báo đã được chính quyền Anh công nhận. Cuối năm 2004, một tấm biển lưu niệm dành cho Foley đã được gắn tại tòa nhà của Đại sứ quán Anh ở Berlin. Năm 2007, người Anh quyết định làm một bộ phim nghệ thuật về Foley và đề nghị Cục Tình báo mật MI.6 cung cấp các tài liệu liên quan đến ông, nhưng cơ quan này từ chối. Vậy là bộ phim về James Bond của thời đại Holocaust không được ra mắt. Tuy nhiên, năm 2018, tại Stourbridge, nơi Foley đã sống những năm cuối đời, tượng đài Foley đã được khánh thành để vinh danh ông. Cùng năm đó, một bức tượng bán thân của Foley đã được dựng tại trụ sở của MI.6 ở London
Mỹ phản đối Israel xây dựng tại Bờ Tây Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ Matthew Miller ngày 26.6 thông báo Mỹ "vô cùng lo ngại" khi chính phủ Israel quyết định cấp phép xây dựng cho khoảng 5.700 ngôi nhà tại các khu định cư người Do Thái ở Bờ Tây. Reuters dẫn lời ông Miller cho biết các quan chức Mỹ đã bày tỏ sự phản đối với kế...