Cuộc truy lùng nữ người mẫu khát máu bậc nhất của Hittler
Nữ quản ngục Jenny-Wanda Barkmann được biết đến với cả vẻ đẹp và sự tàn ác trong thời gian làm việc ở trại tập trung Stutthof trước khi bị treo cổ vì tội ác của mình vào năm 1946.
Bước ngoặt tội ác
Sự khủng khiếp của các trại tập trung của Đức Quốc xã đã được ghi lại rõ ràng trong suốt lịch sử, khi có các cuộc đàn áp tàn ác đối với người Do Thái ở châu Âu và các dân tộc bị hắt hủi khác đã trở thành một bài học đau thương trong nhiều năm kể từ Thế chiến II. Nhưng trong khi nhân loại chú ý nhiều đến những người đàn ông phải chịu trách nhiệm cho những tội ác khủng khiếp này, thì ngoại lệ nữ cai ngục như Jenny-Wanda Barkmann lại là một trong số những người tàn ác nhất.
Những phụ nữ như Barkmann, Irma Grese và Elisabeth Volkenrath đều trở nên khét tiếng tại các trại tập trung vì sự tàn bạo của họ. 21 kẻ cai ngục cuối cùng đã phải đối mặt với giá treo cổ, bao gồm cả Barkmann, người được mệnh danh là “ Bóng ma xinh đẹp”.
Được biết đến với vẻ đẹp và sự tàn ác của mình, người mẫu trẻ tuổi từng là lính canh tại trại tập trung Stutthof. Mặc dù cô ta đến Stutthof vào năm 1944 – và chiến tranh chỉ kết thúc một năm sau đó – Jenny Barkmann đã nhanh chóng nằm trong số những kẻ độc ác nhất của Đức Quốc xã.
Jenny-Wanda Barkmann đứng trước trại tập trung Stutthof.
Làm thế nào Jenny-Wanda Barkmann trở thành “Bóng ma xinh đẹp”
Jenny-Wanda Barkmann sinh ngày 30/5/1922 tại Hamburg, Đức. Mặc dù cô ta có một tuổi thơ bình thường, nhưng cũng trưởng thành cùng với sự trỗi dậy của chủ nghĩa Quốc xã. Ngay trước khi Barkmann tròn 11 tuổi, Adolf Hitler trở thành Thủ tướng Đức. Khi cô 16 tuổi, nhà cửa, cơ sở kinh doanh và giáo đường của người Do Thái đã bị tấn công trong thời kỳ Kristallnacht, bao gồm cả ở Hamburg. Ngay sau đó, Hitler xâm chiếm Ba Lan và Thế chiến II bắt đầu.
Theo tư liệu của Mémoires de Guerre, Barkmann ban đầu hy vọng sử dụng vẻ đẹp của mình để trở thành người mẫu thời trang. Nhưng khi chiến tranh kéo dài, cô đã thay đổi quyết định. Năm 1944, cô gái 21 tuổi trở thành Aufseherin (còn gọi là nữ quản ngục) tại trại tập trung Stutthof ở Gda-sk, Ba Lan.
Nguồn tin khác cho biết, cha cô là một công nhân đóng tàu bình thương, còn mẹ cô là một người nội trợ. Khi còn nhỏ, Jenny không khác gì các bạn cùng trang lứa – cô cũng chơi đùa với búp bê và mơ ước trở thành diễn viên.
Sau giờ học, cô gái thường được ưu ái nhờ vẻ ngoài rất hấp dẫn, bắt đầu tham gia làm người mẫu thời trang. Chiến tranh bùng nổ không làm thay đổi kế hoạch của cô và Barkmann đã chụp hình thành công cho các tạp chí và các chương trình quảng cáo của Đức. Nhưng đầu năm 1944, một bước ngoặt đã xảy ra trong cuộc đời của người đẹp. Jenny bất ngờ từ bỏ công việc người mẫu và nhận công việc quản giáo tại trại tập trung Stutthof, nằm gần Danzig.
Người ta không biết chính xác điều gì đã thôi thúc cô gái 21 tuổi kiếm được công việc ở địa ngục này. Có lẽ, cô ấy đã bị thu hút bởi nguồn thu nhập cao của lính quản giáo và cơ hội phát triển nghề nghiệp. Hoặc có thể có mong muốn có quyền lực đối với mọi người đã thức tỉnh trong con người Barkmann. Dù sao đi nữa, Jenny đã vượt qua cuộc phỏng vấn thành công và được nhận vào đội ngũ quản ngục.
Trại tập trung Stutthof sau khi được giải phóng, tháng 5/1945.
Ngay từ những ngày đầu tiên làm việc, cựu người mẫu đã tỏ ra sốt sắng phục vụ và đặc biệt nghiêm túc với công việc. Nạn nhân chính của Stutthof là phụ nữ và trẻ em mang quốc tịch Do Thái và Ba Lan. Barkmann đánh đập tù nhân không thương tiếc và tống hàng chục người vào phòng hơi ngạt. Jenny đã thể hiện trí tưởng tượng đáng kinh ngạc, tra tấn nạn nhân của mình và đôi khi khiến cả đồng nghiệp của cô bị sốc. Cô nhanh chóng tự khẳng định mình là một trong những Aufseherin tàn bạo nhất của trại Stutthof.
Cô không ngần ngại đánh đập tù nhân – đôi khi đến chết – và thường xuyên đưa phụ nữ và trẻ em vào phòng hơi ngạt, những người mà cô và các lính canh khác thấy quá yếu hoặc ốm yếu để làm việc.
Video đang HOT
Bề ngoài, người quản ngục Barkmann trông giống như một sinh viên thông minh mong manh và sự tương phản bên trong này càng khiến cô ấy trở nên khủng khiếp hơn. Số lượng nạn nhân chính xác của “Mad Jenny” vẫn chưa được biết rõ, nhưng có tư liệu nói rằng cô ấy có liên quan đến cái chết của hàng trăm tù nhân và tự tay giết hàng chục người khác. Một hoạt động kinh khủng như vậy khiến vào năm 1945, ngay khi quân đội Liên Xô bắt đầu tiếp cận Stutthof, kẻ sát nhân đã bỏ trốn.
Trong suốt cuộc chiến, Bảo tàng Tưởng niệm Holocaust của Hoa Kỳ báo cáo rằng, có tới 100.000 người đã bị trục xuất đến Stutthof và khoảng 60.000 người đã chết ở đó. Nhiều người đã chết vì các bệnh như sốt phát ban. Nhưng nhiều người khác đã bị lính canh trại gửi đến phòng hơi ngạt. Năm 1944, Barkmann trở thành một trong những người canh trại này. Cô ta là một trong số 3.700 phụ nữ đảm nhận vị trí như vậy – trong tổng số 55.000 lính canh trong các trại tập trung của Đức Quốc xã – xinh đẹp và tàn bạo, Jenny-Wanda Barkmann được mệnh danh là “Bóng ma xinh đẹp”.
Sự sụp đổ
Vào thời điểm Jenny-Wanda Barkmann đang đảm bảo danh tiếng của mình tại Stutthof, Thế chiến II đã bắt đầu kết thúc. Tháng 4/1945, Adolf Hitler tự sát ở Berlin. Một tháng sau, quân Đức đầu hàng. Và Barkmann, “Bóng ma xinh đẹp” liền chạy khỏi Stutthof và lẩn trốn.
Jenny-Wanda Barkmann trở thành một trong những tội phạm Đức Quốc xã bị truy nã gắt gao nhất. Nhưng ả vẫn tìm cách trốn tránh công lý thành công trong 4 tháng. Cô ta đã ở đâu trong thời gian này và ai đã giúp đỡ nữ tội phạm, cuộc điều tra không thể tìm ra. May mắn thay, hồ sơ cá nhân của kẻ tàn bạo có một bức ảnh được lưu giữ trong trại tập trung, và bên cạnh đó, các tù nhân nhớ rất rõ về cô ta. Hình ảnh và hồ sơ mô tả về “Mad Jenny” đã được gửi đi khắp châu Âu và chẳng mấy chốc ả đã bị sa lưới.
Barkmann rơi vào tay một đội tuần tra quân sự tại nhà ga xe lửa Gdansk khi cô chuẩn bị rời Ba Lan. Trong cuộc thẩm vấn, Barkmann khai rằng cô luôn đối xử tốt với các tù nhân Do Thái, thậm chí còn nói rằng, cô đã cứu một số người trong số họ khỏi cái chết. Nhưng những người thẩm vấn cô ấy cuối cùng đã nhìn thấu hành động của ả ta.
Hình ảnh “con quái vật đến từ Stutthof” hoàn toàn không phù hợp với ngoại hình và cách cư xử của một cô gái khiêm tốn. Barkmann thậm chí còn đánh lừa được một trong những cai ngục. Hạ sĩ của quân đội Ba Lan, Joseph Lyas, một người Do Thái, thấm nhuần những câu chuyện của cô gái đến nỗi anh bắt đầu đồng cảm với cô. Tên tội phạm Đức quốc xã cầu xin Lyas cho cô ra ngoài chỉ trong vài giờ. Theo cô gái, điều này sẽ đủ thời gian để thu thập bằng chứng về sự vô tội. Nhưng viên hạ sĩ đã kịp thời xem tài liệu của vụ án về Barkmann với những bức ảnh rùng rợn về các nạn nhân của ả và không mắc phải sai lầm chết người.
Những gì anh nhìn thấy đã khiến Joseph Lyas phẫn nộ vì cha mẹ và nhiều bạn bè của anh đã chết trong các trại tập trung của Đức. Viên hạ sĩ không nói chuyện với Jenny nữa, và cơ hội trốn thoát cuối cùng của kẻ thủ ác tan biến như mây khói.
Thật vậy, hàng chục người sống sót ở Stutthof đã làm chứng chống lại Barkmann trước tòa, mô tả những tội ác tàn bạo mà cô ta đã phạm phải với tư cách là một Aufseherin. Ngay cả luật sư của cô ta cũng thừa nhận rằng Barkmann có tội, nhưng lập luận rằng đó là do cô ấy bị bệnh tâm thần – anh ta tuyên bố rằng một người bình thường không thể phạm tội ác như Barkmann gây ra. Đặc biệt là vì cô ấy không có lý do gì để ghét bất cứ ai. Nhưng Barkmann trông không giống người điên. Cô ta phản ứng trước mọi lý lẽ của luật sư.
Nữ sát nhân Jenny-Wanda Barkmann (ngồi sau bên phải) tại phiên xét xử.
Kẻ giết người thực tế đã không giúp ích gì cho chính cô ấy. Đối mặt với cáo buộc tàn bạo và giết người, Barkmann đáp lại bằng một tràng cười khinh khỉnh. Cô ta không cầu xin sự tha thứ. Cô ấy không bao giờ rơi một giọt nước mắt hay tỏ ra hối hận. Lời cuối cùng của kẻ tội phạm trước tòa là: “Cuộc sống thực sự là một niềm vui lớn, và niềm vui, như một quy luật, không kéo dài lâu”.
Sáng sớm ngày 4/7/1946, Barkmann cùng với 10 tội phạm chiến tranh khác bị đưa đến nơi hành quyết trên Đồi Biskup gần Gdansk. Hơn 200 nghìn người đã tụ tập ở đó để xem cái chết của những tên đao phủ đáng nguyền rủa. Nhiều người từ xa đến để chứng kiến cái chết của những kẻ đã hành hạ họ và những kẻ hành quyết người thân và bạn bè của họ. Hạ sĩ Joseph Lyas cũng đứng trong đám đông khán giả. Không ai bận tâm đến đám tội phạm ở Gdansk bằng ở Nuremberg. Một đao phủ chuyên nghiệp thậm chí còn không dám tham gia vào vụ hành quyết. Những kẻ bị kết án bị đưa lên giá treo cổ lớn trên những chiếc xe tải, cổ họ bị quàng thòng lọng, sau đó chiếc xe lao đi. Khi đến lượt Barkmann, chiếc xe không muốn khởi động. Sự cố gây ra tiếng xì xào trong đám đông. Sau đó, một cựu tù nhân của Stutthof chạy lên xe và đẩy Jenny ra khỏi xe. Jenny-Wanda Barkmann chết ngay lập tức. Cô ta khi ấy 24 tuổi.
Khi thi thể cô ấy đung đưa trong gió, rất nhiều người trong đám đông đổ xô đến tiếp cận thi thể, cố gắng xé một mảnh vải hoặc giành một chiếc cúc áo để giữ làm kỷ niệm. Cuối cùng, thi thể của cô ta được gửi đến Khu Giải phẫu ở Gdansk, cùng với thi thể của những tên tội phạm khác, để dùng làm phương tiện hỗ trợ thị giác cho các sinh viên y khoa. Sau đó được xử lý như chất thải sinh học, ít nhất mang lại một số lợi ích cho xã hội.
Nhưng lòng căm phẫn vẫn dành cho Jenny-Wanda Barkmann rất lớn, và có thời điểm, tin đồn lan truyền rằng, thi thể cô thực sự đã được hỏa táng và tro cốt được đưa về quê hương Hamburg của Barkmann. Tin đồn cũng cho rằng tro cốt của cô sau đó được đổ vào bồn cầu và xả nước. Tất nhiên, đó chỉ là một tin đồn.
Quá khứ tàn ác và đau thương tạo nên một bộ phim truyền hình mới gây tranh luận do Kenley Smith viết kịch bản và đạo diễn có tên “Maidens”. Tác phẩm phản kháng đã được phát triển và đưa vào sản xuất lần đầu tiên trên toàn thế giới về mặt nghệ thuật tại Nhà hát Darkhorse bởi Tennessee Playwrights Studio. Kịch bản có thể lấy bối cảnh trong quá khứ, nhưng như nhà viết kịch đã lưu ý trong chương trình: “Chủ nghĩa phát xít đang ở đâu đó”. Nó luôn luôn như vậy, và nó tự bộc lộ khi chúng ta cho phép một kẻ mị dân khơi dậy nỗi sợ hãi và lòng căm thù của chúng ta. Đáng buồn thay, “Maidens” đã trở nên thịnh hành như đã từng xảy ra vào năm 1946.
Cuộc vượt ngục kinh hoàng từ trại tử thần Sobibor
Trại tử thần Sobibor của Đức Quốc xã được thành lập ở phía đông nam Ba Lan vào mùa xuân năm 1942 như một phần của chương trình tiêu diệt người Do Thái ở châu Âu.
Trại tồn tại chỉ chưa đầy một năm rưỡi, nhưng trong thời gian này có khoảng 250.000 người Do Thái từ Ba Lan và các nước châu Âu khác đã bị sát hại tại nơi này.
"Cỗ máy" giết người
Phương thức giết người của trại cực kỳ đơn giản - một tuyến đường sắt nhỏ chở tù nhân đến khu trại Sobibor ở trong rừng. Ngay lập tức họ được gửi đến nơi được gọi là "nhà tắm", thực chất là một phòng hơi ngạt, tại đây những người mới đến sẽ bị giết trong vòng 15 phút. Sau đó, số tù nhân còn sống sẽ mang các thi thể đi chôn dưới một con mương đặc biệt ở gần trại.
Tuyến đường sắt chạy tới khu vực trại tử thần Sobibor.
Ngoài những người bị giết ngay lập tức, còn có khoảng 500 tù nhân khác được giữ lại làm những công việc thông thường bên trong trại. Trên thực tế, "băng tải tử thần" được phục vụ bởi những người sẽ sớm trở thành nạn nhân của chính nó. Theo đánh giá của quân phát xít, cách làm này có lợi hơn về mặt kinh tế. Trại được bảo vệ bởi những tên lính SS và các thành viên của đội cộng tác có vũ trang. Tại Sobibor, những người này phần lớn là người Ukraine, đặc biệt là trong số đó có tên Ivan Demjanjuk khét tiếng tàn bạo.
Trong thời gian trại tử thần này tồn tại, có một số nỗ lực để vượt ngục đã được thực hiện, nhưng hầu như tất cả đều thất bại. Cho đến mùa thu năm 1943, tình hình đã thay đổi khi một nhóm tù nhân chiến tranh người Do Thái của Liên Xô, trong đó có Alexandr Pechersky bị chuyển đến Sobibor.
Đài tưởng niệm tại khu vực của trại Sobibor trước đây.
Kế hoạch trốn trại của trung úy Pechersky
Alexandr Aronovich Pechersky sinh năm 1909 trong một gia đình Do Thái ở Kremenchug. Cha của ông là luật sư. Năm 1915, gia đình chuyển đến Rostov-on-Don, nơi Alexandr sẽ sống phần lớn cuộc đời. Sau giờ học, chàng trai làm thợ tiện tại một nhà máy. Sau khi tốt nghiệp đại học ngay trước chiến tranh, Alexandr trở thành người lãnh đạo nhóm nghệ thuật nghiệp dư.
Ngày 22/6/1941, Alexandr Pechersky 32 tuổi được gọi nhập ngũ. Vì có trình độ đại học nên anh được phong quân hàm thiếu úy, sau đó được chứng nhận là kỹ thuật viên quân sự hạng 2, tương đương với cấp bậc trung úy. Anh đã chiến đấu gần Smolensk trong hàng ngũ của trung đoàn pháo binh số 596 của quân đoàn 19. Đơn vị của Alexandr đã bị bao vây ở gần Vyazma. Sĩ quan quân đội Pechersky đã cùng với những người lính khác đã cứu chính ủy trung đoàn ra khỏi vòng vây. Họ đã lang thang trong đầm lầy suốt một thời gian dài, cả nhóm đã giao tranh với kẻ thù cho đến khi hết đạn và rơi vào tay địch.
Trung úy Pechersky bị chuyển từ trại này sang trại khác vì anh không muốn phục tùng và không từ bỏ kế hoạch bỏ trốn. Quân Đức đã không phát hiện ra ngay rằng Pechersky là người Do Thái. Sau khi phát hiện ra điều này, ngay lập tức chúng chuyển Pechersky đến trại Sobibor để tiêu diệt. Ngày 23/9/1943, đợt tù binh đầu tiên của Liên Xô đã đến Sobibor. Trong số 600 người đã có khoảng 520 người đã bị hành quyết ngay lập tức. 80 người được chọn làm những công việc thông thường, trong số này có Pechersky sau khi được một người bạn thuyết phục tự nhận mình là thợ mộc.
Trung úy Pechersky không hề ảo tưởng về sự may mắn của mình. Anh hiểu rõ rằng, những ai chưa bị giết ngay thì sau đó không lâu cũng sẽ bị sát hại. Và anh quyết định sử dụng thời gian được sống sót để cố gắng quyết chiến với Đức Quốc xã trong một trận chiến cuối cùng. Vào thời điểm đó, có một nhóm hoạt động ngầm đã tồn tại ở Sobibor do Leon Feldhendler đứng đầu.
Tuy nhiên, những công dân thuần túy tham gia nhóm lại thiếu kinh nghiệm và sự quyết tâm. Vì thế, họ tin tưởng dành sự lãnh đạo cho Alexandr Pechersky. Trung úy Pechersky đã đề nghị từ bỏ ý định trốn thoát đơn lẻ mà thực hiện một cuộc nổi dậy. Pechersky nhấn mạnh rằng tất cả mọi người nên bỏ trốn, vì bất luận thế nào quân Đức cũng sẽ giết những người còn lại. Pechersky cũng thẳng thắn nói rằng nhiều người sẽ chết, nhưng một số sẽ có cơ hội trốn thoát. Hầu hết các tù nhân đều ủng hộ kế hoạch của Trung úy Pechersky.
Trung úy A.Perchersky, người tổ chức cuộc vượt ngục.
Kế hoạch của Pechersky như sau: những người nổi dậy phải giết ban lãnh đạo trại và đơn vị lính canh, thu giữ vũ khí và thoát ra ngoài. Nhưng làm cách nào để có thể thực hiện được điều này?
Vào ngày đã định là 14/10/1943, quân Đức Quốc xã bắt đầu dụ từng người một đến xưởng với những cái cớ hợp lý như thử đồng phục. Tại đây, họ đã bị bóp cổ hoặc bị giết bằng những nhát rìu. Pechersky giao nhiệm vụ cho các đồng đội của mình là các tù nhân chiến tranh- những người có kỹ năng chiến đấu tay đôi nên sẽ dễ dàng đối phó với lính canh hơn.
Pechersky chỉ ở lại trại trong ba tuần, nhưng ý chí và quyết tâm của anh đã giúp biến các tù nhân thành một biệt đội có khả năng hành động thành thục và rõ ràng. Vào ngày 14/10, quân nổi dậy đã thanh toán 11 lính SS và cả đội cảnh sát Ukraine gần như án binh bất động. Tuy nhiên, sau đó những tên lính canh sống sót đã gióng chuông báo động.
Từ lúc đó, các tù nhân của Sobibor đã tạo ra bước đột phá. Một khẩu súng máy nhả đạn từ tòa tháp. Các tù nhân chiến tranh đã thu giữ vũ khí, tham gia giao chiến với lính canh. Mọi người lao đến hàng rào thép gai, dùng cả cơ thể để phá rào. Có những người nổi dậy đã bị chết dưới làn đạn, bị nổ tung trong bãi mìn xung quanh trại, nhưng không gì có thể ngăn cản họ. Sau khi phá cổng, nhiều người tìm cách thoát ra ngoài.
Trong số 550 tù nhân ở trong trại có 130 người không tham gia nổi dậy, có những người bị ốm hoặc thể lực bị suy kiệt không thể tham gia chiến đấu. Cũng có người hy vọng rằng sự phục tùng tuyệt đối sẽ giúp họ được sống sót. Nhưng điều này đã không xảy ra. Vào ngày hôm sau bọn Đức đã điên cuồng bắn chết tất cả những tù nhân còn lại trong trại. Có khoảng 80 người khác đã chết ở Sobibor trong thời gian xảy ra giao chiến. Hơn 300 tù nhân đã được tự do. Trong hai tuần tiếp theo, những người chạy trốn đã bị cuốn vào một cuộc săn đuổi thực sự. Có khoảng 170 người đã bị Đức Quốc xã phát hiện và tiêu diệt.
Sau khi bỏ trốn, số phận của nhiều người đã được quyết định bởi sự lựa chọn mà họ đưa ra sau đó - hoặc là đi theo Trung úy Pechersky, người đã kêu gọi họ rời khỏi Ba Lan đến Belarus hoặc lẩn trốn ở Ba Lan.
Hầu hết những người rời đi cùng với Trung úy Pechersky (chủ yếu là những tù nhân chiến tranh của Liên Xô) đã trốn thoát. Phần lớn những người ở lại Ba Lan đã chết. Tuy vậy, nhiều người bị chết không phải dưới bàn tay của Đức Quốc xã, mà bởi bàn tay người Ba Lan. Có khoảng 90 tù nhân của Sobibor, những người đã trốn thoát khỏi các cuộc săn lùng của Đức Quốc xã lại trở thành nạn nhân của những kẻ tay sai, cũng như của những thường dân địa phương bài Do Thái.
Tượng đài tại Sobibor ngày nay.
Công trạng bị lãng quên
Người Đức đã rất tức giận với cuộc nổi dậy ở Sobibor. Sau đó trại này đã nhanh chóng bị phá hủy, tại địa điểm xảy ra vụ thảm sát đất bị cày xới và Đức Quốc xã đã cho trồng bắp cải và khoai tây lên đó.
Thủ lĩnh của cuộc nổi dậy, Alexandr Pechersky đã chiến đấu trong một đội du kích ở Belarus, và sau khi Belarus được giải phóng khỏi quân Đức, ông đã bị các cơ quan phản gián SMERSH kiểm tra. Thời gian sau, sự mô tả các sự kiện từ các nguồn khác nhau và từ các nhân chứng là cực kỳ mâu thuẫn. Người sĩ quan Liên Xô từng là tù binh trong hai năm đã làm dấy lên nghi ngờ trong lòng các nhân viên phản gián.
Theo một số báo cáo, Trung úy Pechersky được xung vào tiểu đoàn hình sự, ông đã bị thương ngay trong trận chiến đấu đầu tiên và đã được phục hồi với việc "chuộc lỗi bằng xương máu". Theo những người khác thì "vụ Pechersky" đã sớm được giải quyết và ông đã bị thương trong trận chiến với tư cách là một sĩ quan chính thức. Cho dù là bằng cách nào chăng nữa thì Alexandr Pechersky đã được đón ngày Chiến thắng với cấp bậc Đại úy.
Pechersky đã viết một cuốn sách về cuộc nổi dậy ở Sobibor, nhưng ông không thuộc số những anh hùng nổi tiếng nhất của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của đất nước Xô Viết. Tổ quốc cũng không trao cho ông các giải thưởng. Alexandr Pechersky chỉ nhận được huy chương "Vì chiến thắng phát xít" và "Vì cống hiến quân sự".
Có một số lý do về thái độ lạnh lùng đối với sự kiện ở Sobibor. Ở Liên Xô khi ấy không quá chú trọng đến chiến công trong chiến tranh của những người thuộc tộc đơn sắc và cuộc nổi dậy ở Sobibor là sự vụ của người Do Thái. Ngoài ra, ở miền đất hứa, sự kiện nổi dậy ở Sobibor được vinh danh ở cấp nhà nước đã không nhận được sự hưởng ứng của ban lãnh đạo Liên Xô và làm ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa Liên Xô và Israel.
Còn một khía cạnh quan trọng khác - câu chuyện về những tù nhân trốn thoát đã chết dưới bàn tay người Ba Lan có nguy cơ phá hủy mối quan hệ giữa Liên Xô và Ba Lan thời đó. Vì vậy, người ta đã cố gắng không nhớ đến sự kiện Sobibor.
Alexandr Aronovich Pechersky đã sống suốt thời kỳ hậu chiến ở Rostov-on-Don, cũng là nơi ông qua đời vào tháng 1/1990. 3 năm trước khi ông qua đời, một bộ phim có tên là "Cuộc trốn chạy khỏi Sobibor" đã được quay ở Hollywood, diễn viên Rutger Hauer đóng vai Pechersky. Bản thân Pechersky đã được mời tham dự buổi ra mắt của bộ phim nhưng ông đã không đến Mỹ. Có một số lần, các nhà hoạt động xã hội đã cố gắng để chiến công của Alexandr Pechersky được ghi nhận tại Nga ở cấp nhà nước, nhưng đã không đạt kết quả.
Tuy vậy, vào năm 2007, một bảng tưởng niệm đã được xuất hiện tại ngôi nhà, nơi Alexandr Pechersky từng sống ở Rostov-on-Don.
Francis Foley: Vị bồ tát của thời kỳ diệt chủng Trong thời gian làm việc tai Đại sứ quán Anh ở Berlin, Francis Edward Foley, sĩ quan Cục Tình báo mật (MI.6) đã giúp hơn 10.000 người Do Thái thuộc các thành phần khác nhau, từ giáo sư đến người bình thường, rời khỏi Đức Quốc xã và lôi kéo nhiều gián điệp Đức về phía Anh. Sau chiến tranh, điệp viên MI.6...