Các tế bào miễn dịch hoạt động quá mức gây tử vong cho bệnh nhân Covid-19?
Một nghiên cứu mới công bố đã thấy mối liên hệ giữa sự thâm nhập của bạch cầu trung tính trong phổi của bệnh nhân với các triệu chứng của COVID-19.
Trong hệ miễn dịch của cơ thể, tế bào bạch cầu trung tính phát hiện vi khuẩn và có thể trục xuất AND của mình (xem mũi tên) để tấn công vi khuẩn bằng một mạng AND mỏng manh chứa các enzym độc gọi là NET.
Trong các nỗ lực khẩn cấp để điều trị bệnh nhân nhiễm COVID-19, một nhóm gồm mười một tổ chức nghiên cứu y tế quốc tế đang nghiên cứu xem liệu việc hoạt động quá mức của các tế bào miễn dịch tạo ra bẫy bạch cầu trung tính ngoại bào (NETs) có phải là nguyên nhân gây ra các ca bệnh nghiêm trọng. Liên minh nghiên cứu này có tên là NETwork, trong đó có phòng thí nghiệm Cold Spring Harbor, Viện nghiên cứu y học Feinstein và Viện nghiên cứu Trung tâm y tế Đại học McGill (RI-MUHC) và các đơn vị khác.
Một bài báo của nhóm nghiên cứu được xuất bản ngày 16 tháng 4 trên Tạp chí Journal of Experimental ( Y học Thực nghiệm) đã mô tả rằng, bệnh nhân nhiễm COVID-19 nặng có thể xuất hiện Hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS), viêm phổi, tiết nhiều dịch nhầy trong đường thở, tổn thương phổi lan rộng và có các cục máu đông. Những giai đoạn cuối này của bệnh nhân rất khó kiểm soát. Trong trường hợp xấu nhất, bệnh nhân cần dùng thở máy xâm lấn và thậm chí nhiều bệnh nhân có nguy cơ tử vong.
NETwork cho rằng mức độ nghiêm trọng của COVID-19 có thể do sự hoạt động quá mức của tế bào bạch cầu trung tính trong máu. Là một phần của hệ thống miễn dịch trong cơ thể, bạch cầu trung tính phát hiện các vi khuẩn và phóng ra ADN của mình để tấn công vi khuẩn bằng mạng lưới ADN mỏng manh chứa các enzim độc gọi là một NET. Những NET này có thể bẫy và tiêu hóa các mầm bệnh không mong muốn, nhưng trong trường hợp Hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS), chúng phá hủy cả phổi và các cơ quan khác.
Video đang HOT
Nhấn để phóng to ảnh
Trong phổi, các NET thúc đẩy sự tích tụ chất nhầy ở bệnh nhân xơ nang đường thở. Các NET cũng thúc đẩy hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS) sau một loạt các tác nhân gây cảm ứng, bao gồm cả cúm. Trong hệ thống mạch máu, các NET tạo ra chứng xơ vữa động mạch và phình động mạch chủ cũng như chứng huyết khối (đặc biệt là chứng huyết khối nhỏ), với nhiều tác động tàn phá ảnh hưởng đến chức năng các cơ quan.
Tiến sĩ Bestsy Barnes – giáo sư ở Viện nghiên cứu Feinstein, trưởng nhóm và là đồng tác giả của bài viết- cho biết: dựa trên những điểm tương đồng rõ rệt giữa những biểu hiện lâm sàng của COVID-19 dạng nặng và những bệnh đã biết khác do NET gây ra như Hội chứng suy hô hấp cấp tính, nhóm nghiên cứu cho rằng, lượng NET dư thừa có thể đóng vai trò chính trong căn bệnh này. “Khi có sẵn những mẫu bệnh phẩm từ bệnh nhân, điều quan trọng là phải xác định sự tồn tại của NETs có liên quan đến mức độ nghiêm trọng của bệnh và/hoặc các triệu chứng lâm sàng đặc biệt của COVID-19 hay không”.
“NET được xác định vào năm 2004, nhưng nhiều nhà khoa học còn chưa được nghe nói về chúng. Hầu như các nhà nghiên cứu của NETwork đã nghiên cứu về NET trong nhiều bệnh khác và khi chúng tôi bắt đầu nghe về các triệu chứng ở bệnh nhân nhiễm COVID-19, thì thấy rằng chúng rất quen thuộc” Tiến sĩ Mikala E Quaylad, nhà nghiên cứu sinh học ung thư của Phòng thí nghiệm Cold Spring Harbor, người đã xây dựng nhóm nghiên cứu NETwork về các vấn đề xung quanh COVID-19 và là tác giả chính của bài báo cho hay.
Tiến sĩ Jonathan Spicer, một nhà khoa học lâm sàng tại RI-MUHC và là Giáo sư dự khuyết về phẫu thuật tại Đại học McGilllaf, ông là một bác sĩ phẫu thuật lồng ngực đã chứng kiến rất nhiều tác động tàn phá của COVID-19. Ông nói, “chúng tôi thấy trong phổi của các bệnh nhân nhiễm bệnh COVID-19 bị tổn thương nặng đến mức Hội chứng suy hô hấp cấp tính – vấn đề nghiêm trọng khác gây ra bởi bẫy ngoại bào trung tính và thường thấy trong các trường hợp cúm nặng. “Ngoài ra, đường thở của các bệnh nhân thường bị tắc nghẽn bởi nhiều chất nhầy, và không giống với hầu hết các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng về phổi, những bệnh nhân này có xu hướng hình thành các cục máu đông nhỏ khắp cơ thể với tốc độ cao hơn nhiều so với bình thường. NET cũng được tìm thấy trong máu của các bệnh nhân nhiễm trùng máu hoặc ung thư, những đối tượng có nguy cơ cao hình thành các cục máu đông”.
Các nhà nghiên cứu tại mười một tổ chức của NETwork hiện đang theo đuổi các nghiên cứu để xác định liệu NET có xảy ra phổ biến đối với các bệnh nhân nhiễm COVID-19 hay không. Nếu phát hiện của họ cho thấy rằng NET dư thừa gây ra các triệu chứng nghiêm trọng của COVID-19, thì có thể triển khai một phương pháp điều trị mới cho các bệnh nhân COVID-19: Các phương pháp điều trị hiện tại đã được sử dụng cho các bệnh khác do NET và bạch cầu trung tính gây ra – như xơ nang, bệnh gút và viêm khớp dạng thấp, có thể được sử dụng làm giảm hoạt động của NET ở bệnh nhân nhiễm COVID-19, giúp giảm nhu cầu dùng máy thở xâm lấn.
Ngọc Anh
COVID-19 có thể gây ra chấn thương tim
COVID-19 có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho những người mắc bệnh tim mạch tiềm ẩn và gây tổn thương tim ngay cả ở những bệnh nhân không mắc bệnh tim.
Kết quả đánh gia này đến từ các nhà khoa học của Trung tâm Khoa học Y tế Đại học Texas tại Houston (UTHealth) được công bố trên tạp chí JAMA Cardiology.
Các chuyên gia đã biết rằng các bệnh do virus như COVID-19 có thể gây nhiễm trùng đường hô hấp và dẫn đến tổn thương phổi và thậm chí tử vong trong những trường hợp nghiêm trọng nhưng ít biết về tác động trên hệ thống tim mạch.
Có khả năng ngay cả khi không có bệnh tim trước đó, cơ tim có thể bị ảnh hưởng bởi coronavirus, Mohammad Madjid, tác giả chính của nghiên cứu và một trợ lý giáo sư về tim mạch tại UTHealth cho biết. Về cơ bản, chấn thương cơ tim có thể xảy ra ở bất kỳ bệnh nhân nào mắc hoặc không mắc bệnh tim.
Các tác giả nghiên cứu cũng giải thích rằng nghiên cứu từ coronavirus và dịch cúm trước đây cho thấy rằng nhiễm virus có thể gây ra hội chứng mạch vành cấp tính, rối loạn nhịp tim và sự phát triển hoặc làm trầm trọng thêm bệnh suy tim.
Trong một bản tin do Đại học Tim mạch Mỹ phát hành đã tiết lộ rằng tỷ lệ tử vong liên quan đến COVID-19 đối với bệnh nhân mắc bệnh tim mạch là 10,5%. Dữ liệu cũng chỉ ra khả năng lớn hơn là những người trên 65 tuổi mắc bệnh tim mạch vành hoặc tăng huyết áp có thể mắc bệnh, cũng như gặp phải các triệu chứng nghiêm trọng hơn cần được chăm sóc quan trọng.
Theo các tác giả nghiên cứu, các trường hợp nguy kịch là những trường hợp báo cáo suy hô hấp, sốc nhiễm trùng hoặc rối loạn chức năng đa cơ quan dẫn đến tử vong.
Trang Phạm
Thuốc điều trị HIV không hiệu quả với COVID-19? Một nhóm các bác sĩ và nhà nghiên cứu ở Trung Quốc đã phát hiện ra rằng các loại thuốc có hiệu quả trong điều trị bệnh nhân nhiễm HIV lại không hiệu quả đối với COVID-19. Trong báo cáo được công bố trên Tạp chí Y học New England, nhóm nghiên cứu đã mô tả thử nghiệm lâm sàng họ được tiến...