Australia xét tốt nghiệp và tuyển sinh đại học thế nào?
Học sinh Australia phải thi tốt nghiệp khoảng 6 môn, bắt buộc có tiếng Anh, sau đó dùng kết quả này để xếp hạng trong tiểu bang và xét tuyển đại học.
Chị Trương Nguyễn Thoại Giang, làm việc cho Chính phủ Australia, chia sẻ về kỳ thi tốt nghiệp THPT và xếp hạng xét tuyển đại học ở Australia.
Tại Australia, các đại học chủ yếu dựa trên thứ hạng tốt nghiệp THPT để tuyển sinh. Quá trình thi tốt nghiệp và xét tuyển đại học chia thành ba giai đoạn chính.
Chọn môn thi tốt nghiệp phổ thông trung học
Giữa năm học lớp 10, học sinh sẽ được hướng dẫn chọn môn thi tốt nghiệp dựa trên nghề nghiệp tương lai cũng như sở trường và sở thích bản thân. Các môn thi tốt nghiệp nằm trong 11 tổ hợp bao gồm: Nghệ thuật biểu diễn, Nghe nhìn (Visual), Công nghệ, Tiếng Anh, Toán, Xã hội, Khoa học, Kinh tế và Kinh doanh, Kỹ thuật số, Thể thao và Sức khỏe, Ngôn ngữ.
Mỗi tổ hợp gồm nhiều môn. Ví dụ, Nghệ thuật biểu diễn gồm Múa, Kịch, Âm nhạc, Sân khấu… Nghe nhìn gồm Truyền thông, Thu âm. Tổ hợp Xã hội gồm Lịch sử, Địa lý, Triết học; còn Khoa học gồm Vật lý, Hóa học, Sinh học, Tâm lý học. Chương trình học tại Australia có khoảng 12 ngôn ngữ, thông dụng nhất là Tiếng Italy, Tiếng Hy Lạp và Tiếng phổ thông Trung Quốc. Nếu học sinh chọn ngôn ngữ không phổ biến, chẳng hạn Tiếng Việt, các em thường phải đi học ngoài giờ.
Học sinh sẽ trải qua các đơn vị (unit) khi học một môn thi tốt nghiệp. Unit 1 và 2 là kiến thức nền tảng thường học ở lớp 11 để hỗ trợ cho Unit 3 và 4 được học ở lớp 12. Mỗi unit cần một học kỳ, tức nửa năm để hoàn tất. Bài thi tốt nghiệp hầu hết hỏi về kiến thức được dạy trong unit 3 và 4. Để tốt nghiệp, học sinh phải hoàn tất ít nhất 16 unit, trong đó bắt buộc có 3 unit Tiếng Anh. Đa số môn cần học lần lượt treo trình tự, nhưng với vài môn như Kế toán, học sinh có thể bắt đầu từ unit 3 luôn nếu có khả năng theo kịp.
Thông thường, học sinh chọn 6 môn thi tốt nghiệp, trong đó bắt buộc có ít nhất một môn trong tổ hợp Tiếng Anh (tương đương môn Văn ở Việt Nam) gồm Tiếng Anh – Ngôn ngữ thứ hai (cho người nước ngoài mới nhập cư), Tiếng Anh – Ngôn ngữ, Tiếng Anh – Ngữ văn và Tiếng Anh – Văn học.
Toán không phải là môn bắt buộc, tuy nhiên rất nhiều ngành trong đại học tuyển sinh yêu cầu môn này nên cũng nhiều học sinh chọn Toán. Tổ hợp Toán có 4 môn từ dễ tới khó là Toán nâng cao, Toán phổ thông, Phương pháp Toán và Toán cao cấp. Nếu giỏi toán, học sinh được chọn tối đa 2 môn Toán.
Do khuynh hướng nghề nghiệp là các ngành kỹ thuật, con tôi lúc học lớp 10 chọn 6 môn thi tốt nghiệp là Tiếng Anh – Ngôn ngữ, Phương pháp Toán, Toán cao cấp, Hóa học, Vật lý và Kế toán. Với những môn trên, cháu có rất nhiều chọn lựa ngành nghề từ kỹ thuật, y khoa cho tới luật, kinh doanh.
Trường trung học tuyển Melbourne High School. Ảnh: Thoại Giang
Vượt qua bài kiểm tra kiến thức phổ thông (GAT)
Trước kỳ thi tốt nghiệp khoảng ba tuần, học sinh cuối cấp phải trải qua bài kiểm tra kiến thức phổ thông (General Achievement Test). Bài thi này dài 3 tiếng, gồm hai bài luận, mỗi bài 30 phút và 70 câu hỏi tự chọn về các lĩnh vực toán, công nghệ, khoa học, xã hội và nghệ thuật.
Điểm thi GAT không liên quan trực tiếp tới kết quả tốt nghiệp. Tuy nhiên, trường hợp có sự chênh lệch giữa điểm thi tốt nghiệp và kết quả đánh giá nội bộ của mỗi trường, Bộ Giáo dục sẽ tham khảo kết quả GAT, sau đó điều chỉnh kết quả đánh giá nội bộ của trường để đảm bảo học sinh được công bằng. Trường nào có tiêu chuẩn đánh giá học sinh cao, các em bị điểm nội bộ thấp sẽ được điều chỉnh lên và ngược lại.
Video đang HOT
Ngoài ra, nếu thí sinh bị bệnh hoặc không may gặp tai nạn, ảnh hưởng kết quả thi tốt nghiệp, khi đó kết quả GAT cũng được dùng làm căn cứ.
Thi tốt nghiệp phổ thông trung học và xếp hạng xét tuyển vào đại học (ATAR)
Thông thường, học sinh được phép chọn học và thi một môn tốt nghiệp năm lớp 11 và năm môn năm lớp 12 để giảm gánh nặng. Năm nay, con tôi đang học lớp 11 và sẽ thi môn Kế toán (cùng các học sinh lớp 12). Năm sau, cháu sẽ thi 5 môn còn lại để hoàn tất chương trình phổ thông trung học.
Điểm mỗi môn tốt nghiệp bằng tổng điểm đánh giá nội bộ của trường cộng với điểm thi do hội đồng tốt nghiệp chấm. Tùy theo môn học mà tỷ lệ điểm đánh giá nội bộ và điểm thi tốt nghiệp khác nhau. Ví dụ ở môn Tiếng Anh, phần đánh giá nội bộ của thầy cô cho Unit 3, 4 và bài thi tốt nghiệp dài 2 tiếng có tỷ lệ bằng nhau 50:50. Môn Phương pháp Toán 34:66, môn Sinh học 40:60. Điểm tối đa một môn là 50.
Điểm số này sau đó được điều chỉnh theo quy tắc thống kê của Bộ Giáo dục, tùy theo mức độ khó dễ của môn học để đảm bảo học sinh thi môn khó vẫn nhận được điểm tương tự những bạn thi môn dễ. Chẳng hạn, kết quả Toán nâng cao là 43 có thể bị điều chỉnh xuống 41,29, trong khi đó Toán cao cấp khó hơn các môn khác trong tổ hợp Toán nên kết quả thi 36 có thể lên 47,44.
Sau khi điều chỉnh, tổng điểm tốt nghiệp = S1 cộng S2 cộng (10% x S3). Trong đó S1 là điểm Tiếng Anh, S2 là tổng điểm của ba môn thi tốt nghiệp cao nhất (trừ Tiếng Anh), S3 là tổng cộng điểm số của hai môn còn lại. Điểm tối đa là 210.
Điểm tốt nghiệp này sau đó được chuyển thành thứ hạng cho tất cả thí sinh trong một tiểu bang, gọi là ATAR (Australian Tertiary Admission Ranking), có giá trị từ 0 tới 99.95 và mỗi hạng cách nhau 0.05. Một học sinh ở Victoria có ATAR 75 nghĩa là bạn đó nằm trong top 25% học sinh tốt nghiệp phổ thông trong năm của tiểu bang.
Các đại học dựa trên thứ hạng ATAR để tuyển sinh toàn quốc do ATAR của tiểu bang này cũng bằng tiểu bang khác. Mỗi trường lại có yêu cầu về thứ hạng ATAR và các môn tốt nghiệp riêng cho từng ngành học. Ví dụ, nếu muốn trúng tuyển ngành Thương mại (bậc cử nhân) của Đại học Melbourne, thí sinh cần thứ hạng ATAR là 92 và điểm tốt nghiệp Tiếng Anh, Phương pháp Toán ít nhất là 25. Trong khi cùng bằng cấp ở Đại học Latrobe bạn chỉ cần ATAR 80, Tiếng Anh đạt 25 điểm và không cần môn Toán nào.
Đối với các ngành Y, Nha khoa, Dược, ngoài ATAR cao, thí sinh còn phải vượt qua một bài kiểm tra năng khiếu và phỏng vấn. Chẳng hạn, để được nhận vào y khoa của Đại học Monash, các em phải xếp hạng ATAR từ 98 trở lên, thi tốt nghiệp gồm hai môn Tiếng Anh và Hóa học, kết quả thi UCAT (University Clinical Aptitude Test) cao và qua vòng phỏng vấn.
UCAT là bài kiểm tra dài 2 tiếng để đánh giá năng khiếu, IQ, thái độ, hành vi và khả năng cần thiết cho bác sĩ và nha sĩ. Giữa một thí sinh có xếp hạng tốt nghiệp ATAR cao và một thí sinh có điểm UCAT cao, các trường có khuynh hướng chọn em có điểm UCAT cao hơn.
ATAR ra đời năm 2009 và hiện được sử dụng trên tất cả tiểu bang của Australia. Nhiều ý kiến cho rằng cách tính điểm thi tốt nghiệp phổ thông và xếp hạng tuyển sinh đại học ATAR quá phức tạp. Việc dùng thứ hạng ATAR để xếp loại tốt nghiệp sẽ gây áp lực lên toàn bộ học sinh, nhất là những em không có ý định học đại học. Hơn nữa, khả năng và tài năng của học sinh có thể vượt ngoài phạm vi lớp học và không được tính đến. Thứ hạng ATAR quá cứng nhắc, không phản ánh tiềm năng của học sinh, đồng thời ATAR cũng không tính đến những bất lợi xã hội giữa các trường nằm ở hai khu giàu, nghèo.
Mặc dù ATAR bị chê lỗi thời, các chuyên gia cho rằng việc dùng ATAR xếp hạng thí sinh tốt nghiệp phổ thông trung học và tuyển sinh đại học sẽ không thay đổi vì hệ thống này thuận tiện, rẻ và hiệu quả.
Nhìn lại các mùa tuyển sinh đại học: Báo động đỏ!
Khoa học, kỹ thuật và công nghệ là nguồn lực cơ bản nhất của sự phát triển, nhưng các khối ngành kỹ thuật của các trường đại học đang tuyển sinh èo uột là một báo động đỏ về nền giáo dục nước nhà.
Gần một thập niên trở lại đây, trong tuyển sinh đại học, ngoài một số trường ĐH khối kỹ thuật thuộc top như ĐH Quốc gia Hà Nội, ĐH Quốc gia TP.HCM, ĐH Bách khoa HN... có điểm chuẩn đầu vào ổn định, ở mức cao thì hầu hết các trường ĐH kỹ thuật khác trên cả nước có điểm đầu vào khá thấp.
Cụ thể: Cùng một khối thi A, A1, B... nhiều ngành như xây dựng, thủy lợi, thủy điện cấp thoát nước, môi trường, kỹ thuật hóa của nhiều trường đại học khối kỹ thuật sức khỏe tuyển sinh 15-18 điểm không có nguồn tuyển. Trong khi mức độ đề thi học sinh trung bình cũng làm được 17-18 điểm ba môn xét đại học.
Điểm chuẩn nhiều ngành kỹ thuật thấp hơn điểm chuẩn các ngành kinh tế, xã hội từ 10-12 điểm.
Có những trường đại học mang danh top, lấy điểm cao chót vót nhưng điểm xét gồm: Điểm học bạ Toán hoặc Văn bắt buộc môn tự chọn (thường là GDCD).
Điều gì đang xảy ra với giáo dục đại học?
Nhiều trường đại học một thời lừng lẫy về chất lượng tuyển sinh và đào tạo như Xây dựng, Kiến trúc, Thủy lợi, Nông nghiệp, Giao thông vận tải càng ngày càng khó tuyển sinh. Cho dù mức độ đề thi tuyển sinh có xu hướng ngày càng dễ hơn thì điểm chuẩn đầu vào của các trường này càng ngày càng thấp, tụt lại phía sau rất xa so với các khối ngành kinh tế, xã hội.
Điều gì đang xảy ra với giáo dục đại học Việt Nam?. Nhiều nhà quản lý giáo dục cho rằng giáo dục đang đi đúng hướng thị trường. Cái gì cũng có quy luật của nó và điều tất yếu chính là sự gặp nhau của cung và cầu. Tuy nhiên nếu những ai quan tâm đến một nền giáo dục khai sáng sẽ nhận ra nhiều bất cập:
Thứ nhất, việc thiết chế nội dung chương trình học bậc phổ thông chưa hợp lý.
Thứ hai, nền giáo dục quá coi trọng về thi cử và bằng cấp.
Thứ ba, việc đổi mới căn cơ và toàn diện nền giáo dục không được thực hiện bài bản khoa học.
Bên cạnh đó, lâu nay các trường đại học hoặc không được tự chủ, hoặc cho tự chủ một cách nửa vời, dẫn đến các trường đại học mạnh ai người ấy làm.
Quay trở lại với hai lĩnh vực Khoa học tự nhiên và Khoa học xã hội: Năm 2017, lần đầu tiên Bộ GD-ĐT thay đổi hình thức thi theo bài thi tổ hợp môn. Năm đầu tuyển sinh kiểu này, Bộ GD&ĐT phát đi tín hiệu đáng mừng là lượng thí sinh (TS) chọn Ban Khoa học xã hội (KHXH) chiếm tỉ lệ áp đảo. Những môn như Lịch sử, Giáo dục Công dân (GDCD) và Địa lý lâu nay chưa được phụ huynh học sinh quan tâm lúc này đã lên ngôi.
Thống kê tương đối, năm 2002-2014 tỉ lệ chọn môn thi môn Lịch sử chỉ dao động từ 7-8,5%, thì năm 2015-2016, tỉ lệ này có nhích lên chút, từ 15-15,5%, đến năm 2017 tỉ lệ này đã là 43,75%.
Theo thời gian tỉ lệ chọn thi Ban KHXH tăng dần. Điều đáng mừng ngày xưa bắt đầu là nỗi lo cho những ai quan tâm đến tương lai phát triển đất nước.
Nếu như tỉ lệ chọn thi Ban KHXH năm 2017 là 43,75% thì năm 2018 đã là 48%; năm 2019 là 53,38% và năm 2020, 2021 là trên 55%.
Do đặc thù thi cử, rất nhiều em, dù trước đây không xác định lựa chọn các môn xã hội làm môn chính để thi THPT Quốc gia (nay là kỳ thi tốt nghiệp THPT) nhưng nay vẫn quyết định lựa chọn tổ hợp này để thi.
Khá dễ hiểu là những môn KHXH chỉ cần có tư duy học và nắm vững những kiến thức cơ bản là dễ làm bài hơn các môn thi trong bài thi tổ hợp KHTN vốn có rất nhiều công thức phức tạp, đòi hỏi nhiều kỹ năng tính toán và tư duy liên khối trong chương trình phổ thông
Theo lý giải của ông Mai Văn Trinh - Cục trưởng Cục quản lý chất lượng (Bộ GDĐT), nguyên nhân chủ yếu khiến tỉ lệ học sinh chọn bài thi Khoa học xã hội luôn ở mức cao là do học sinh ưu tiên cho mục tiêu xét tốt nghiệp trước nên các em có xu hướng chọn bài thi Khoa học xã hội nhiều hơn.
Bên cạnh đó, từ năm 2017 đến nay, các trường ĐH trên cả nước đã bổ sung thêm nhiều tổ hợp môn xét tuyển nên thí sinh khá thoải mái trong việc chọn ngành, chọn trường.
Ngoài 4 tổ hợp môn truyền thống A, B, C, D nay cả nước đã có trên 150 khối xét tuyển với nhiều phương thức tuyển sinh khác nhau. Ngoài việc môn Văn chấm tự luận, người chấm dễ phóng bút cho điểm thì đề thi các môn KHXH dễ kiếm điểm đã đẩy điểm chuẩn các trường lên cao do các trường thường lấy chung một mức điểm cho tất cả các khối. Đó là điều bất hợp lý và gây thiệt thòi cho các em theo đuổi ban KHTN.
Lâu dần ban KHTN bị thí sinh và phụ huynh bỏ ngỏ tạo ra những tín hiệu tiêu cực cho những em muốn cống hiến đam mê sáng tạo trên lĩnh vực KHKT sau này.
Khoa học Tự nhiên đang lép vế dần
Quay trở lại với vấn đề thi phân ban KHTN và KHXH. Không thể phủ nhận vai trò quan trọng của khoa học xã hội (KHXH) đối với sự hình thành và phát triển thể chế của mỗi quốc gia. Bởi Khoa học xã hội gồm những môn học nhân văn, giáo dục phẩm chất con người, truyền động lực và ý chí cho con người, góp sức xây dựng nền tảng phát triển đất nước. Thế nhưng khi KHXH đang lấn át KHTN và toàn bộ những người giỏi tập trung hết vào KHXH và KHTN lép vế thì nền kinh tế đất nước sẽ về đâu.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và xu hướng phát triển nền kinh tế tri thức, hơn bao giờ hết, khoa học, kỹ thuật và công nghệ biểu hiện như là nguồn lực cơ bản nhất, là "chìa khóa"' của sự phát triển xã hội nhưng các khối ngành kỹ thuật của hàng loạt các trường Đại học trên cả nước đang tuyển sinh èo uột là một báo động đỏ về nền giáo dục nước nhà.
Thạc sĩ Trương Tiến Sĩ- Giảng viên Trường ĐH Ngân hàng, Chủ tịch Hiệp hội Tư vấn du học tiếng Anh tại Philippines cho biết: "Những năm gần đây, điểm chuẩn đầu vào của khối kinh tế, khối KHXH nhân văn cao hơn cả khối sức khỏe và khối kỹ thuật (đang xét mức điểm chung của cùng khối xét tuyển) chính là thất bại của giáo dục".
Nhà giáo ưu tú, Nguyễn Thị Thanh Thủy, cựu hiệu trưởng trường THPT chuẩn Quốc gia Vũng Tàu cũng chung nhận định: "Không biết chúng ta sẽ đi về đâu khi điểm đầu vào của khối sức khỏe, khối kỹ thuật càng ngày càng cách xa so với khối xã hội nhân văn. Với một đề thi mức độ học sinh trung bình cũng đạt được 17-18 điểm thì những trường khối kỹ thuật có điểm tuyển sinh đầu vào 15-20 điểm liệu có đào tạo được những nhân tài về khoa học công nghệ giúp ích nước nhà trong cuộc tái thiết và xây dựng đất nước".
Đổi mới toàn diện giáo dục đang là một khẩu hiệu. Nhưng đổi mới mà không dựa vào những luận cứ khoa học sẽ làm giáo dục càng ngày càng lệch hướng. Đào tạo một con người toàn năng, biết và giỏi hết mọi thứ là một sai lầm hết sức nghiêm trọng.
Việc định hướng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ phải bắt đầu từ khi học sinh kết thúc bậc trung học cơ sở. Giảm tải và bớt hàn lâm hóa nội dung chương trình sách giáo khoa là việc cần làm ngay.
Cần tạo điều kiện để các trường đại học khối kỹ thuật tự chủ tuyển sinh, liên doanh liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước để nâng cao chất lượng dạy và học.
Cần có chính sách cấp học bổng thường xuyên, dài kỳ cho những ngành kỹ thuật đặc thù. Coi trọng và nâng cao chất lượng đầu vào và đầu ra của các ngành khối kỹ thuật thông qua cơ chế đặc thù về tuyển sinh, học bổng và đào tạo là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong chiến lược đào tạo của các trường.
Để thực hiện được điều này, định hướng giáo dục và thi cử ở các cấp học phổ thông là hết sức quan trọng, đòi hỏi các nhà quản lý giáo dục phải đủ tầm, đủ tâm, dám nghĩ dám làm, dám nhận trách nhiệm.
Chàng trai xuất sắc Bách khoa Hà Nội: "Học giỏi để không khổ như bố mẹ" "ĐH Bách khoa Hà Nội là ước mơ cũng như là một thử thách đối với tôi. Trước khi thi vào Bách khoa, điều tôi trăn trở nhiều nhất chính là kinh tế của gia đình cho tôi học đại học...". Đó là chia sẻ của sinh viên Vũ Ngọc Lư - sinh viên lớp Cơ học vật liệu và Cán kim loại,...