9 loại vũ khí đáng sợ bậc nhất của ninja
Những loại vũ khí của ninja Nhật được xuất phát từ đời sống nên tính ứng dụng rất cao.
Ninja có rất nhiều loại vũ khí đáng sợ mang trong người.
Họ đến như một làn gió. Họ biến mất như một làn khói. Tất cả được thực hiện trong đêm với các thủ thuật vượt quá năng lực người thường. Ninja – chiến binh bóng đêm siêu hạng luôn là nỗi khiếp sợ của bất kì lãnh chúa Nhật nào mỗi khi đêm xuống.
Để làm nên một ninja Nhật xuất quỷ nhập thần, leo tường, khoét vách, đi trên mặt nước hay ẩn mình, kĩ năng tự thân là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, một đặc trưng khác làm nên huyền thoại ninja chính là sự đa dạng của các dòng binh khí được dùng.
Số lượng vũ khí của ninja là rất lớn bởi thời gian phát triển trên 1.000 năm với những biến động lịch sử liên tục. Nội dung sau đây đề cập tới những binh khí đặc trưng, phổ biến nhất của ninja trong thực chiến:
Shuriken
Loại vũ khí phổ biến nhất của ninja là shuriken (phi tiêu hình sao). Shuriken có nhiều loại khác nhau nhưng hay dùng nhất là loại dẹt, phẳng hình ngôi sao. Trong thực tế có tới 50 loại shuriken khác nhau, chia làm 2 nhóm chính là “dạng phẳng” và “dạng que”.
Ninja sẽ dùng shuriken dựa vào tình hình thực tế. Họ thường phủ shuriken bằng một lớp muội than ở ngoài để tránh chú ý và không bị gỉ. Ngoài ra, bề mặt nhám của shuriken giúp bôi chất độc dễ hơn.
Kiếm ninja
Kiếm của ninja so với samurai thì rất khác vì ngắn và thẳng hơn. Chiều dài trung bình của kiếm ninja là 54 cm so với 70 cm của samurai. Kiếm ngắn giúp ninja cận chiến dễ hơn dù đây không phải là điều họ mong muốn. Ngoài ra, ninja hay hoạt động trong địa hình chật hẹp nên kiếm nhỏ dễ thao tác hơn là thanh dài. Đáng chú ý, tất cả những kiếm ninja được biết tới ngày nay đều được chế tạo từ thời Edo (1603-1868).
Hiện nay vẫn còn nhiều bí ẩn quanh chuyện tại sao ninja lại dùng kiếm vì đặc trưng của họ là lén lút chứ không phải cận chiến. Lí do được nhiều người chấp nhận là bởi ninja thời kì Edo chính là samurai “chuyển hóa” mà thành. Do đó, họ làm kiếm cầm theo bên người để nhắc nhở mình từng là một võ sĩ đạo.
Kusarigama
Kusarigama là một vũ khí có hình dạng như một lưỡi liềm và một quả chùy nối với nhau bằng đoạn xích dài. Chiều dài của dây xích có thể từ 1 tới 4 mét. Để sử dụng binh khí này, ninja sẽ ném quả chùy vào vũ khí đối phương khiến nó rớt xuống đất. Ngoài ra, ninja có thể dùng quả chùy ném và khóa chặt tay, chân đối thủ rồi vật ngã họ xuống đất. Sau đó, ninja dùng chiếc liềm để kết liễu kẻ thù.
Cách thức sử dụng Kusarigama rất đa dạng nên ninja có thể dùng cho nhiều mục đích khác nhau. Khả năng của ninja sẽ quyết định độ nguy hiểm của loại vũ khí này. Trước đây, Kusarigama thường dành cho nông dân, thợ thủ công hoặc thợ máy không được phép sử dụng kiếm như samurai. Tuy nhiên do tính linh hoạt nên ninja cũng dần sử dụng nó khi giao chiến.
Kunai
Video đang HOT
Đây được xem là thứ vũ khí nguy hiểm nhất của ninja, chỉ xếp sau shuriken. Kunai thường làm từ thép và hình dáng giống cái nêm. Một đầu của kunai giống mũi tên, đầu còn lại có thanh thép dài khoét lỗ tròn. Chiều dài của kunai từ 10 đến 48 cm, trọng lượng từ 1 tới 5 lạng.
Kunai thường dùng để vượt hàng rào hoặc tường của lâu đài. Đôi lúc, ninja cắm kunai vào tường và trèo vào lâu đài của đối phương. Kunai thường dùng để vượt các địa hình cao. Khi đó, ninja sẽ buộc dây thừng vào lỗ tròn và phi đầu nhọn lên cành cây hoặc bờ tường.
Ninja có thể dùng kunai như một con dao vì nó rất sắc hoặc đánh lửa thay thế cho diêm.
Makibishi
Đây là loại binh khí phân biệt rõ nhất giữa ninja và samurai. Một samurai là võ sĩ đạo, đồng nghĩa đầu hàng không có trong từ điển của họ. Nếu phải chết, họ sẵn sàng mổ bụng chính mình.
Ngược lại, ninja là lính do thám nên lẩn trốn và thoát thân là một phần của nhiệm vụ. Họ không cảm thấy nhục nhã khi làm điều này. Khi bỏ chạy, ninja sẽ vứt lại makibishi dọc đường để ngăn cản kẻ địch tiếp cận. Đây là loại chông với nhiều đầu sắc nhọn và làm bằng kim loại. Chỉ cần giẫm trúng chân thì đối phương sẽ buộc phải từ bỏ ý định truy sát ninja.
Tekko kagi
Tekko kagi là một loại dụng cụ thường được nông dân sử dụng, sau này ninja tận dụng và trở thành vũ khí riêng. Trước đây, Tekko kagi là một lưỡi liềm dùng để thu hoạch lúa nhưng được chế thành 4 lưỡi sắt như tay gấu và được đeo vào cổ tay.
Tekko kagi là loại vũ khí vừa dùng để tấn công, vừa dùng để phòng thủ. Khi cần, ninja đeo Tekko kagi bằng cả hai tay và lao vào cận chiến với đối phương.
Kakute
Kakute là loại binh khí gắn trong lòng bàn tay và có nhiều mũi nhọn nhô ra. Do kích thước rất nhỏ nên kakute có thể dùng để gây hại cho đối phương mà không bị phát hiện, đặc biệt ở vùng cổ và cánh tay. Khi tấn công bằng kakute, đối phương không chết mà chỉ bị thương và mất máu. Lúc này là cơ hội “vàng” để ninja bỏ trốn.
Nếu dùng kakute tấn công vào phần mắt, hậu quả sẽ là rất khôn lường. Ngoài ra, ninja có thể gắn thêm thuốc độc vào kakute để hạ thủ đối phương.
Mìn tay
Nhật Bản lần đầu biết tới súng là năm 1543 từ các thuyền buôn châu Âu. Ngay khi biết được sức mạnh của thuốc súng, ninja đã tìm cách sử dụng loại vũ khí mới này. Nhờ tự nghiên cứu, chế tạo, ninja sử dụng mìn tay như một loại vũ khí phổ biến để tiêu diệt kẻ thù.
Mìn tay ở Nhật được làm từ sulfur, than đá và diêm tiêu, sau đó nhồi thành một khối có dây dẫn bằng giấy bồi. Khi cần sử dụng, ninja sẽ châm lửa đốt dây cháy chậm và ném vào quân địch.
Các loại thuốc độc
Ninja thường sống trên núi cao nên họ cũng rất khéo tận dụng cây cỏ ở đây để điều chế thuốc độc. Từ bé, các ninja đã được đào tạo dược lý nên họ biết cây nào tốt cho sức khỏe, cây nào có thể giết người.
Ninja có thể hóa thân thành bác sĩ để lấy lòng tin của đối phương, sau đó ra tay hạ độc bằng các bài thuốc chết người. Thuốc độc được xem là vũ khí hiệu quả vì nó giết người rất nhanh và không để lại dấu vết.
Có lúc, ninja tẩm thuốc độc vào shuriken, phi tiêu để giết đối thủ chứ không chỉ gây ra thương tích đơn thuần. Thuốc độc được xem là vũ khí hiệu quả vì nó giết người rất nhanh và không để lại dấu vết.
________
Trong tình thế hiểm nghèo, ninja Nhật có thể niệm thần chú và biến thành trăm người khác? Đây là sự thật hay chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng? Đón đọc kì 4: “Thực hư huyền thoại ninja Nhật phân thân thành trăm người”.
Theo Danviet
Sự thật ninja Nhật độn thổ, phân thân thành trăm người
Tranh khắc gỗ thế kỷ 19 có hình ảnh ninja chỉ cần đan tay vào nhau, đọc thần chú 9 từ là lập tức phân thân thành trăm người hùng hậu
Ninja dùng thuật kuji-kiri để biến hình.
Họ đến như một làn gió. Họ biến mất như một làn khói. Tất cả được thực hiện trong đêm với các thủ thuật vượt quá năng lực người thường. Ninja - chiến binh bóng đêm siêu hạng luôn là nỗi khiếp sợ của bất kì lãnh chúa Nhật nào mỗi khi đêm xuống.
Những năng lực khó tin
Ninja thường được gắn với các năng lực siêu nhiên vượt trội hơn tất cả mọi người. Một trong số những truyền thuyết gắn liền với ninja là khả năng bay như chim, tàng hình, biến hình thành mọi con vật, triệu hồi động vật hoặc kiểm soát 5 nguyên tố tự nhiên.
Theo sử gia Michael Turnbull, những năng lực kì diệu này xuất phát từ thời Edo trong các hình thức nghệ thuật như vẽ tranh hay thơ văn. Turnbull cũng cho rằng đây là một hình thức phát tán thông tin về những năng lực siêu nhiên của ninja.
Kuji-kiri có rất nhiều biến thể khác nhau.
Tác giả Nakagawa Shoshujin trong tác phẩm Okufuji Monogatari khẳng định ông có năng lực biến thành chim và các loài thú khác nhau. Truyền thuyết kể lại rằng Nikki Danjo, một ninja khét tiếng tàn ác có khả năng biến một phần cơ thể thành chuột. Nikki sẽ sử dụng khả năng này để đánh nhau với đối phương. Các tranh khắc gỗ của họa sĩ Kunisada năm 1857 cũng mô tả lại năng lực kì lạ này của Nikki.
Khả năng điều khiển 5 nguyên tố tự nhiên gồm kim, mộc, thủy, hỏa, thổ cũng thường được nhắc tới trong các tác phẩm truyền thống. Nhờ việc làm chủ 5 kĩ năng mà ninja được gắn với nhiều truyền thuyết khó tin.
Trong thực chiến, ninja cũng sử dụng kĩ thuật điều khiển thiên nhiên để lẩn trốn kẻ thù, bao gồm độn thủy, độn hỏa, độn mộc, độn kim và độn thổ. Độn thổ là kĩ năng phổ biến nhất, trong đó ninja đột ngột biến mất trước mặt kẻ thù. Thực chất, họ đã đào trước một chiếc hố và sẽ nhảy vào đó trong đêm tối. Màu sắc của quần áo và bóng đêm giúp họ ẩn mình nhanh chóng.
Độn thủy là kĩ thuật cũng tương đối phổ biến khi cần chạy trốn với dụng cụ quan trọng là một ống sậy. Ninja khi cần lẩn tránh kẻ thù truy đuổi gắt gao sẽ nhảy xuống ao, hồ và dùng ống sậy để thở. Họ có thể ở dưới nước trong 1,2 tiếng liên tục mà không bị phát hiện. Ninja thường thở ở nơi có nhiều bèo tấm để tránh gây xao động mặt nước.
Độn mộc được dùng khi ninja áp sát người vào thân cây và dùng miếng vải tối màu che hết thân mình. Lợi dụng bóng đêm, ninja sẽ tránh bị quân thù phát hiện. Dù vậy, kĩ thuật này mức độ thành công không cao và thường đẩy ninja vào tình thế bị động.
Độn hỏa và độn kim ít được sử dụng nhất, trong đó ninja sẽ ném pháo cầm tay để làm đối phương bất ngờ rồi nhanh chân tẩu thoát. Kĩ thuật này rất tốn thời gian để kích nổ pháo tay và có thể gây ra những vết thương chí mạng nếu dây cháy chậm quá ngắn. Độn kim là cách ninja ném...tiền ra đằng sau để những kẻ đuổi theo dừng lại và nhặt tiền thay vì truy đuổi ninja. Cách này có xác suất thành công thấp nhất và thường chỉ xuất hiện trong tranh vẽ chứ không có ninja nào thực hiện ngoài đời.
Nhiều sử gia khẳng định kĩ thuật phân thân thành trăm người chỉ là hư cấu.
Việc ninja sử dụng diều để do thám và lẩn trốn cũng thường được đề cập. Tác giả Draeger trong cuốn "Toàn tập võ thuật cổ truyền châu Á" khẳng định ninja thường dùng diều để bay tới các địa hình hiểm trở và ném bom vào quân địch. Đôi lúc, diều được dùng vào mục đích truyền tin giữa các địa điểm xa xôi.
Sử gia Turnbull nhấn mạnh rằng diều lớn có thể nhấc người khỏi mặt đất, tuy nhiên việc dùng diều để bay lượn như chim rồi tấn công quân địch "chỉ có trong tưởng tượng".
Phân thân thành trăm người
Đáng chú ý và nhận được sự quan tâm nhiều nhất là năng lực phân thân thành trăm người khác nhau để chiến đấu với quân thù hoặc đánh lạc hướng. Để kích hoạt năng lực này, tranh vẽ truyền thống mô tả ninja phải dùng thuật đan tay kuji-kiri để hội tụ sức mạnh của các vị thần rồi phân tách cơ thể thành hàng trăm người.
Ninja Nhật có kĩ thuật chiến đấu rất tốt nhưng cũng chỉ là người bình thường.
Dù truyền thuyết này rất được ưa chuộng nhưng sử gia Turnbull phủ nhận và nói đây chỉ là điều tưởng tượng trong thế giới ninja để tăng thêm tính huyền bí.
Thuật kuji-kiri là kĩ thuật đan tay vào nhau hay được các chiến binh Aryan Hindu thực hiện. Từ kuji (nghĩa là "cửu cách") có xuất xứ từ đạo Lão ở Trung Quốc, cho rằng ninja có thể triệu hồi sức mạnh của thuật phân thân bằng cách đọc thần chú 9 từ, theo tác giả David Waterhouse trong cuốn "Tôn giáo Nhật Bản - mũi tên lên thiên đường".
David nói rằng ninja Nhật tin tưởng vào sức mạnh siêu nhiên sau khi đọc xong thần chú vì một vị thần sẽ được triệu hồi. Thuật kuji-kiri truyền vào Nhật thông qua Phật giáo và phát triển nở rộ dưới thời Shugendo (thế kỷ thứ 7). Đến nay, trong nhiều bộ phim hay truyện tranh, thuật đan tay kuji-kiri vẫn được thực hiện như một niềm tin vào việc triệu hồi năng lực siêu nhiên.
___________
Ông được xem là ninja Nhật duy nhất còn sống giữa thế kỷ 21. Với kĩ năng luyện tập từ nhỏ, ninja này có thể giết một người chỉ bằng vết rạch nhỏ như đốt tay. Đón đọc kì 5: "Ninja Nhật cuối cùng giết nạn nhân bằng đường rạch 2cm".
Theo Danviet
Ninja Nhật cuối cùng: Kết liễu nạn nhân bằng đường rạch 2cm Người được xem là ninja cuối cùng của Nhật Bản khẳng định sẽ không truyền nghề vì nó không phù hợp trong thời hiện đại. Jinichi bên kho binh khí đa dạng được tổ tiên truyền lại. Họ đến như một làn gió. Họ biến mất như một làn khói. Tất cả được thực hiện trong đêm với các thủ thuật vượt quá...