Viện trợ vũ khí của Mỹ lại ‘chảy’ tới Ukraine chỉ trong vài ngày
Vũ khí từ kho dự trữ của Lầu Năm Góc ở Đức sẽ được vận chuyển nhanh chóng bằng đường sắt đến biên giới Ukraine.
Các quân nhân Ukraina huấn luyện ở khu vực Donetsk vào đầu tháng 4/2024. Ảnh: New York Times
Các quan chức Mỹ cho biết các chuyến hàng vũ khí của nước này có thể sớm chảy trở lại Ukraine ngay sau khi gói viện trợ bị đình trệ từ lâu được Hạ viện thông qua ngày 20/4 và Tổng thống Biden nhanh chóng ký thành luật sau thủ tục phê chuẩn ở Thượng viện. Vũ khí từ kho dự trữ của Lầu Năm Góc ở Đức sẽ được vận chuyển nhanh chóng bằng đường sắt đến biên giới Ukraine.
Dự luật vừa được khơi thông sẽ cung cấp cho nỗ lực chiến đấu của Ukraine khoảng 60 tỷ USD. Trong số này, gần 14 tỉ USD được cho cho đào tạo, trang bị và tài trợ cho nhu cầu của quân đội Ukraine. Kiev cũng sẽ nhận được 10 tỉ USD dưới dạng “các khoản vay có thể miễn hoặc hoãn trả” để hỗ trợ kinh tế và ngân sách Ukraine, bao gồm hỗ trợ cho ngành năng lượng và khôi phục cơ sở hạ tầng. Khoảng 23 tỉ USD trong gói viện trợ được dùng để bổ sung vũ khí và trang thiết bị cho chính Mỹ.
Sau khi Hạ viện phê duyệt gói viện trợ, Tổng thống Biden đã kêu gọi Thượng viện nhanh chóng thực hiện biện pháp này để giúp đáp ứng “nhu cầu khẩn cấp trên chiến trường” của lực lượng Ukraine. Dự kiến dự luật sẽ được Thượng viện thông qua sớm nhất là vào 23/4.
Vũ khí viện trợ đã sẵn sàng
Suốt nhiều tháng, giới chức Ukraine đã phàn nàn rằng bế tắc chính trị tại Quốc hội Mỹ đã gây ra tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng đạn dược với họ trong cuộc chiến chống Nga. Quân đội Ukraine ở tiền tuyến đã phải phân chia khẩu phần đạn pháo và nhuệ khí bị ảnh hưởng nặng nề.
Các quan chức Mỹ chưa nói rõ loại vũ khí nào sẽ được gửi tới Kiev theo gói viện trợ mới, nhưng Thiếu tướng Patrick Ryder, người phát ngôn Lầu Năm Góc, nói với các phóng viên hôm 19/4 rằng có thể sẽ có thêm nhiều loại vũ khí phòng không và pháo binh.
Tướng Ryder cho biết: “Chúng tôi có một mạng lưới hậu cần rất mạnh mẽ cho phép chúng tôi di chuyển vật chất rất nhanh như chúng tôi đã làm trước đây”.
“Chúng tôi có thể chuyển [vũ khí] trong vòng vài ngày”, ông Ryder nói thêm.
Việc vận chuyển viện trợ quân sự từ Mỹ bằng máy bay chở hàng và tàu biển thường được điều phối từ tổng hành dinh Bộ Tư lệnh Vận tải Mỹ, đặt ở vùng nông thôn Illinois, nơi duy trì cơ sở dữ liệu rộng lớn về các cảng hàng hóa, đường sắt và đường bộ có thể được sử dụng bởi các phương tiện vận tải quân sự và dân sự trên khắp thế giới.
Tuy nhiên, vũ khí và đạn dược gửi đến Ukraine thường được lấy từ tài sản của Lầu Năm Góc ở châu Âu, với các chuyến hàng được điều phối bởi một tổ chức được thành lập vào cuối năm 2022 có tên là Nhóm Hỗ trợ An ninh-Ukraine, có trụ sở tại Đức và hoạt động trong Bộ Tư lệnh Châu Âu của Lầu Năm Góc. Nhóm này có một đội ngũ nhân viên khoảng 300 người.
Quân nhân tập ngắm súng trường trên trường bắn. Ảnh: New York Times
Kể từ tháng 8/2021, các nhà lãnh đạo quân sự đã gửi cho Ukraine 55 gói viện trợ vũ khí, theo cơ chế PDA (quyền rút vốn của tổng thống) – bao gồm các phương tiện, đạn dược, máy bay không người lái và các thiết bị khác trị giá ít nhất 26,3 tỷ USD.
Video đang HOT
Các gói viện trợ, thường được cung cấp hai lần/tháng sau khi xung đột với Nga bùng nổ vào tháng 2/2022, đã bị chậm lại đáng kể vào mùa thu năm ngoái do một số đảng viên Cộng hòa phản đối gay gắt việc gửi thêm viện trợ cho Kiev.
Tên lửa chiến thuật lục quân ATACMS và đạn pháo
Gói viện trợ mới nhất được công bố vào ngày 12/3 bao gồm tên lửa phòng không Stinger, tên lửa dẫn đường cho xe phóng HIMARS, tên lửa chống tăng cỡ nhỏ và đạn pháo 155 mm trong đó có đạn chùm.
Tại cuộc họp báo ngày 19/4, Tướng Ryder được hỏi về một biện pháp không ràng buộc trong dự luật của Hạ viện về gửi vũ khí ATACMS cho Kiev. Đây vốn là tên lửa dẫn đường phóng từ mặt đất có tầm bắn xa nhất của Lầu Năm Góc kể từ cuối những năm 1980. Chính quyền Tổng thống Biden đã đồng ý cung cấp một số lượng nhỏ tên lửa đó vào năm ngoái và lực lượng Ukraine đã sử dụng chúng để tấn công hai căn cứ không quân trên lãnh thổ do Nga kiểm soát vào tháng 10/2023. Tuy nhiên, ông Ryder không cung cấp câu trả lời rõ ràng mà nói rằng: “Tất nhiên như bạn biết, chúng tôi luôn nói rằng không có gì là không thể tránh khỏi… Nhưng hôm nay tôi không có gì để thông báo cả.”
Mỹ chỉ sở hữu số lượng hạn chế các loại vũ khí này và các quan chức cho biết phần còn lại trong kho vũ khí ATACMS của họ được dành cho các kế hoạch dự phòng.
Hệ thống tên lửa chiến thuật lục quân ATACMS được tập đoàn Lockheed Martin của Mỹ phát triển và sản xuất từ những năm 1990. Tên lửa được thiết kế để trang bị trên tổ hợp pháo phản lực HIMARS, có khả năng vô hiệu hóa các sở chỉ huy và phá hủy kho vũ khí, đạn dược của đối phương.
Các quan chức cũng đưa ra tín hiệu rằng số tên lửa ATACMS bổ sung có thể được cung cấp cho Ukraine ngay khi vũ khí thay thế, được gọi là Tên lửa Tấn công Chính xác (PrSM), bắt đầu được đưa vào kho của Lầu Năm Góc.
Hôm 18/4, người phát ngôn của Lockheed Martin, nhà sản xuất cả ATACMS và HIMARS, cho biết công ty đã giao bốn tên lửa tấn công chính xác đầu tiên hoạt động cho Lục quân Mỹ vào năm ngoái. Một hợp đồng trị giá 220 triệu USD được ký vào tháng 3 vừa qua sẽ cung cấp thêm cho quân đội Mỹ nhiều vũ khí hơn, mặc dù chưa rõ số lượng sẽ mua là bao nhiêu.
Số lượng chính xác vũ khí mà Lầu Năm Góc đã gửi tới Kiev từ kho dự trữ cũng không rõ ràng. Lần cuối cùng Bộ Quốc phòng Mỹ cập nhật số lượng đạn pháo 155 mm mà họ đã cung cấp cho Ukraine là vào tháng 5/2023, khi họ cho biết cho đến nay đã có hơn 2 triệu quả đạn như vậy được gửi đi. Gói vũ khí nào trong số 17 gói viện trợ được công bố cho Ukraine kể từ đó đều bao gồm đạn 155 mm.
Không chỉ là ý chí chính trị
Tuy nhiên, việc gửi thêm vũ khí tới Ukraine phụ thuộc vào nhiều điều khác, chứ không chỉ là ý chí chính trị. Mỹ cũng phải đẩy nhanh việc sản xuất các loại đạn dược mà Ukraine cần nhất để đáp ứng nhu cầu của nước này.
Ở Mỹ, việc chế tạo đạn pháo phải mất vài tuần, vì những thanh thép nặng được rèn thành những viên đạn rỗng ở Scranton, Pennsylvania, sau đó được vận chuyển đến vùng nông thôn Iowa, nơi chúng được nhồi thuốc nổ và chuẩn bị giao hàng.
General Dynamics, công ty vận hành nhà máy ở Pennsylvania, đang mở một nhà máy mới sản xuất thân vỏ kim loại ở ngoại ô Dallas nhằm giúp tăng tổng số vỏ hoàn thiện.
Quân đội Mỹ cho biết họ sản xuất khoảng 30.000 quả đạn pháo công phá cao mỗi tháng, tăng từ mức khoảng 14.000 quả mỗi tháng trước khi chiến sự Ukraine nổ ra. Mục tiêu của họ là sản xuất 100.000 quả đạn pháo 155 mm mỗi tháng vào năm 2025.
Xung đột Nga Ukraine thúc đẩy nền kinh tế Mỹ như thế nào?
Những người ủng hộ Ukraine thường viện dẫn lợi ích chiến lược hoặc "nghĩa vụ đạo đức" của Mỹ.
Gần đây, họ đang đưa ra một viện dẫn tính toán hơn: Điều đó tốt cho nền kinh tế Mỹ.
Quân nhân Ukraine vận chuyển lô hàng tên lửa Javenlin do Mỹ sản xuất và viện trợ cho Kiev. Ảnh: Sputnik
Trong hai năm kể từ khi xung đột Nga - Ukraine bùng phát, ngành công nghiệp quốc phòng Mỹ đã chứng kiến sự bùng nổ về đơn đặt hàng vũ khí và đạn dược. Nguồn thu đến từ các đồng minh châu Âu đang cố gắng xây dựng năng lực quân sự của họ cũng như từ Lầu Năm Góc, nơi vừa mua thiết bị mới từ các nhà sản xuất quốc phòng vừa bổ sung kho quân sự đã cạn kiệt do cung cấp cho Ukraine.
Theo dữ liệu của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), sản xuất công nghiệp trong lĩnh vực quốc phòng và hàng không vũ trụ của nước này đã tăng 17,5% kể từ khi Nga tiến hành chiến dịch quân sự đặc biệt tại Ukraine hai năm trước.
Các quan chức chính quyền Tổng thống Joe Biden nói rằng trong số 60,7 tỷ USD dành cho Ukraine trong dự luật quốc phòng bổ sung trị giá 95 tỷ USD, 64% sẽ quay trở lại cơ sở công nghiệp quốc phòng của chính Mỹ.
Lael Brainard, Giám đốc Hội đồng Kinh tế Quốc gia Nhà Trắng, cho biết trong một cuộc phỏng vấn vào tuần trước: "Đó là một trong những điều bị hiểu lầm... tầm quan trọng của nguồn tài trợ đối với việc làm và sản xuất trên khắp đất nước".
Chi tiêu gần đây của các chính phủ châu Âu cho việc mua sắm máy bay chiến đấu do Mỹ chế tạo và các thiết bị quân sự khác thể hiện "một khoản đầu tư mang tính thế hệ. Những năm vừa qua tương đương với 20 năm trước đó" - Myles Walton, nhà phân tích ngành công nghiệp quân sự tại Wolfe Research, cho biết.
Trong khi gói viện trợ trị giá 95 tỷ USD, bao gồm cả quỹ dành cho Israel và Đài Loan (Trung Quốc), đã được Thượng viện Mỹ thông qua vào ngày 13/2, thì số phận của nó vẫn chưa chắc chắn ở Hạ viện, nơi dự luật bị các đồng minh Đảng Cộng hòa của cựu Tổng thống Donald Trump, phản đối.
Trong số những phản đối của họ có những lý do như: Mỹ không đủ khả năng hỗ trợ Kiev khi thâm hụt liên bang ngày càng gia tăng, dù sao thì Nga cũng sẽ chiếm ưu thế trước Ukraine, và Mỹ cần bảo đảm an ninh tốt hơn cho biên giới của mình trước khi cung cấp thêm viện trợ ra nước ngoài.
Nhưng trên thực tế, gói viện trợ mới nhất, ngoài các cam kết trước đó, có thể bơm khoản tiền trị giá khoảng 0,5% tổng sản phẩm quốc nội trong một năm vào cơ sở công nghiệp quốc phòng của Mỹ trong vài năm.
Bộ Ngoại giao gần đây cho biết Mỹ đã thực hiện hơn 80 tỷ USD trong các hợp đồng vũ khí lớn trong năm tính đến tháng 9/2023, trong đó khoảng 50 tỷ USD được chuyển cho các đồng minh châu Âu - gấp hơn 5 lần so với tiêu chuẩn lịch sử.
Theo bộ trên, Ba Lan đã đặt hàng trị giá khoảng 30 tỷ USD mua máy bay trực thăng Apache, Hệ thống Tên lửa phóng loạt cơ động cao hoặc (HIMARS), xe tăng M1A1 Abrams và các phần cứng khác. Đức đã chi 8,5 tỷ USD mua máy bay trực thăng Chinook và các thiết bị liên quan, trong khi Cộng hòa Séc mua máy bay phản lực và đạn dược F-35 trị giá 5,6 tỷ USD.
Việc thúc đẩy ngành công nghiệp quốc phòng của Mỹ chỉ là một cách mà sự phân mảnh của nền kinh tế thế giới theo các đường địa chính trị đang thắt chặt mối quan hệ Mỹ - châu Âu, thường là vì lợi ích của Mỹ.
Binh sỹ Ukraine vận chuyển tên lửa phòng không vác vai Stinger do Mỹ hỗ trợ. Ảnh: AFP/TTXVN
Không chỉ ở mảng thiết bị quân sự, việc Nga cắt nguồn cung cấp khí đốt đã khiến giá năng lượng và lạm phát tăng mạnh ở châu Âu, đồng thời thúc đẩy nhu cầu của châu Âu đối với khí đốt tự nhiên hóa lỏng của Mỹ.
Mỹ đã trở thành nước xuất khẩu LNG lớn nhất thế giới vào năm ngoái và xuất khẩu LNG của nước này dự kiến sẽ tăng gần gấp đôi vào năm 2030 nhờ các dự án đã được phê duyệt. Khoảng 2/3 số hàng xuất khẩu đó là sang châu Âu.
Alex Munton, giám đốc nghiên cứu khí đốt và LNG toàn cầu tại Rapidan Energy Group, cho biết có 5 dự án LNG mới đang được xây dựng ở Mỹ với tổng vốn đầu tư khoảng 100 tỷ USD. Ông Munton nói, hầu hết các dự án đó chỉ bắt đầu xây dựng sau khi bắt đầu cuộc chiến Ukraine, vì sự gián đoạn nguồn cung cấp khí đốt của châu Âu đã chứng minh giá trị của LNG đối với những người ủng hộ tiềm năng và giúp thúc đẩy các dự án đã lên kế hoạch. Ông Munton nhấn mạnh: "Nền kinh tế Mỹ được hưởng lợi đáng kể nhờ những khoản đầu tư lớn này".
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) có trụ sở tại Paris - một hiệp hội của các nền dân chủ dựa trên thị trường, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Mỹ đã tăng gần 50% trong khoảng thời gian từ 12 tháng đến tháng 6/2021 và cùng kỳ năm 2023.
Các công ty châu Âu nói riêng bị thu hút bởi khả năng tiếp cận nguồn năng lượng dồi dào và giá rẻ từ Mỹ.
Tuy vậy, bản thân viện trợ quân sự không phải là thuốc chữa bách bệnh về kinh tế. Mặc dù các công ty quốc phòng đang tạo thêm việc làm, những công ty gắn liền với Ukraine chỉ chiếm một phần tương đối nhỏ trong việc làm và thu nhập quốc gia. Marc Goldwein, giám đốc chính sách cấp cao của Ủy ban Ngân sách Liên bang Có trách nhiệm, cho biết: "Tôi không nghĩ bạn có thể tự tin nói rằng nền kinh tế Mỹ lớn hơn nhờ chiến tranh, nhưng một số lĩnh vực nhất định của nền kinh tế chắc chắn sẽ lớn hơn".
Tiền cũng cần có thời gian để chảy. Quốc hội phải cấp phép cho các quỹ bổ sung dự trữ cho Lầu Năm Góc và sau đó Lầu Năm Góc ký hợp đồng mua thiết bị mới. Việc bán các loại vũ khí chính ra nước ngoài có thể mất nhiều năm và đôi khi thất bại. William Hartung, thành viên cấp cao tại Viện Quản lý Nhà nước có trách nhiệm Quincy, cho biết ngân sách quân sự hàng năm của Ba Lan là khoảng 16 tỷ USD, vì vậy không rõ làm thế nào nước này có thể sớm trả 30 tỷ USD cho các đơn đặt hàng vũ khí mới.
Ông nói: "Chúng tôi biết rằng có hàng chục tỷ USD hợp đồng tiềm năng dành cho các công ty Mỹ dựa trên những tác động trực tiếp và gián tiếp của cuộc chiến ở Ukraine, nhưng vẫn chưa rõ khi nào các công ty sẽ nhận được số tiền đó".
Trong khi các chính phủ châu Âu đang trả tiền cho các đơn đặt hàng của họ thì phần lớn chi tiêu lại được tài trợ bởi người nộp thuế ở Mỹ hoặc bằng cách đi vay, làm tăng thêm thâm hụt liên bang.
Jason Furman, nhà kinh tế tại Đại học Harvard, cho biết: "Chi tiêu quân sự đã lấn át các khoản chi tiêu khác". Ông lưu ý rằng chi tiêu cho cuộc Chiến tranh Việt Nam trong những năm 1960 đã góp phần khiến nền kinh tế Mỹ quá nóng và lạm phát cao.
Một quân nhân Ukraine đứng gác trong khi máy xúc đào chiến hào ở vùng Zaporizhzhia vào tháng 1/2024. Ảnh: AFP/Getty Images
Tuy nhiên, chính quyền Tổng thống Biden nhìn thấy được lợi ích. Các chuyên gia quân sự lo ngại rằng hàng thập kỷ phi công nghiệp hóa và cắt giảm quy mô quân đội đã khiến cơ sở công nghiệp quốc phòng không thể cung cấp vũ khí và đạn dược cần thiết cho một thế giới đang nguy hiểm hơn. Nhiều đơn đặt hàng hệ thống vũ khí bị tồn đọng trong nhiều năm.
Cynthia Cook, chuyên gia công nghiệp quốc phòng tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), cho biết cuộc chiến Ukraine là lời cảnh báo đối với các chiến lược gia quốc phòng Mỹ. "Điều mà cuộc chiến Ukraine chỉ ra tương đối nhanh chóng là những hạn chế trong cơ sở công nghiệp quốc phòng của Mỹ, đặc biệt là về khả năng phục vụ sản xuất nhanh chóng. Tin tốt là bài học này đã được rút ra khi Mỹ không trực tiếp tham chiến".
Các quan chức chính quyền Biden cho biết nguồn viện trợ được phân bổ cho Ukraine đang thực sự xây dựng lại cơ sở công nghiệp quốc phòng của Mỹ, khởi động và mở rộng dây chuyền sản xuất vũ khí và đạn dược, đồng thời hỗ trợ việc làm ở 40 bang.
Theo Bộ Quốc phòng, chính quyền Mỹ cũng có thể hy vọng vào những lợi ích chính trị bằng cách lưu ý đến tác động đối với người sử dụng lao động ở các bang dao động bầu cử như Pennsylvania và Arizona, mỗi bang sẽ nhận được hơn 2 tỷ USD (từ gói viện trợ cho Ukraine).
Chạy đua cấp vũ khí cho Ukraine, Mỹ đối mặt những rạn nứt về năng lực sản xuất Mặc dù tự hào về ngân sách quân sự lớn nhất thế giới - hơn 800 tỷ USD/năm, Mỹ từ lâu đã chật vật để phát triển và sản xuất hiệu quả các loại vũ khí giúp họ vượt qua các nước cùng đẳng cấp về mặt công nghệ. Những thách thức đó giờ đây còn lớn hơn khi chiến sự quay trở...