Tự chủ đại học không phải tự trị, không phải tự lo mà là xóa cơ chế xin-cho
Tự chủ đại học hiện nay áp dụng cho tất cả các trường, là bỏ cơ chế xin-cho, trao quyền cho các trường tự quyết các vấn đề của mình trên cơ sở hành lang pháp lý.
Tự chủ đại học đã không còn là một khái niệm mới mẻ, song điều quan trọng là phải hiểu như thế nào cho nhất quán, cho đúng về tự chủ đại học.
Năm 2014, Chính phủ ban hành Nghị quyết 77/NQ-CP thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động theo hướng tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017. Đã có 23 trường đại học công lập được thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động theo tinh thần Nghị quyết 77. Điều kiện để tự chủ là các trường cam kết tự đảm bảo kinh phí hoạt động chi thường xuyên và chi đầu tư.
Năm 2018, tự chủ đại học với tất cả các trường đại học không phân biệt công hay tư, tự đảm bảo tài chính hay không, đã được luật hóa theo Luật 34/2018/QH14, và cụ thể hóa trong Nghị định 99/2019/NĐ-CP, đồng thời được thể hiện qua hàng loạt những nghị quyết, các chỉ thị của Đảng, của Chính phủ. Thế nhưng, quá trình triển khai vẫn gặp không ít những vướng mắc.
Tiến sĩ Lê Trường Tùng cho rằng, cần phải phân biệt đúng giữa tự chủ đại học và tự chủ ở các đơn vị sự nghiệp công lập. (Ảnh: Thùy Linh)
Trong cuộc trao đổi mới nhất với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, ông Lê Trường Tùng – Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học cao đẳng Việt Nam, Thành viên Hội đồng Quốc gia về Giáo dục và Phát triển nhân lực, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học FPT nói rằng, sở dĩ chúng ta gặp những khó khăn trong việc thực hiện triển khai là vì đang có tình trạng nhận thức chưa thống nhất, chưa đầy đủ, thậm chí còn nhầm lẫn về khái niệm “tự chủ đại học”. Khi nhận thức khác nhau, không đi vào bản chất của tự chủ trong giáo dục đại học, thì triển khai có nhiều vướng mắc cũng là chuyện bình thường.
Hai khái niệm tự chủ
Theo ông Lê Trường Tùng, cần phải phân biệt hai khái niệm tự chủ: tự chủ trong các đơn vị sự nghiệp công lập (bao gồm cả các trường đại học) với tự chủ trong giáo dục đại học (cũng áp dụng cho các trường đại học công lập).
Tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó có các trường đại học công lập được triển khai theo nghị quyết 77/NQ-CP năm 2014 và nghị định 16/NĐ-CP năm 2015, quy định mức độ tự chủ phụ thuộc vào mức độ tự túc tài chính trong chi thường xuyên và chi đầu tư. Trên cơ sở tự túc sẽ được tự chủ về chuyên môn nghiệp vụ, về tổ chức nhân sự và về tài chính tài sản.
Bởi lẽ đó, khi nói về tự chủ đại học thì nhiều người vẫn đồng nhất tự chủ là tự túc, khi không nhận ngân sách nhà nước thì được trao các quyền tự chủ.
Theo ông Lê Trường Tùng, việc thí điểm tự chủ đại học theo Nghị quyết 77/NQ-CP và nghị định 16/NĐ-CP không phản ánh đúng bản chất của tự chủ trong giáo dục đại học. Điều này dẫn đến tình trạng các trường thấy rằng trường mình đã tự túc được thì không cần đến chỉ đạo của các cơ quan có liên quan khác nữa, biến tướng mô hình tự chủ trên nền tảng tự túc trở thành mô hình tự trị.
Từ khi Luật Giáo dục Đại học sửa đổi 2018 được thông qua, tự chủ đại học trở thành quyền của các trường đại học cả công lập và tư thục. Các trường đại học công lập dù vẫn là đơn vị sự nghiệp công lập, nhưng từ 2018, khi nói đến tự chủ trong giáo dục đại học thì tự chủ không bao hàm ý phải “tự túc” nữa.
Luật Giáo dục Đại học quy định điều kiện để được tự chủ trong chuyên môn nghiệp vụ, về tổ chức nhân sự và về tài chính tài sản của các trường không còn liên quan đến mức độ tự túc, mà chỉ liên quan đến việc trường có được Hội đồng trường, đã được kiểm định chất lượng và ban hành được các quy định quản trị nội bộ phù hợp hay chưa.
Do nhầm tự chủ đại học là tự đảm bảo tài chính, nên nhiều người hiểu rằng tăng học phí ở các trường đại học là do phải tự chủ tự túc tài chính. Trong khi mục đích chính của việc tăng học phí là có được nguồn lực phù hợp để nâng cao chất lượng giáo dục đại học trong bối cảnh chi phí đầu tư một sinh viên Việt Nam đang ở ngưỡng thấp nhất thế giới.
Nhà nước vẫn phải có nghĩa vụ cấp kinh phí hỗ trợ cho các trường đại học, do dịch vụ giáo dục đại học mang tính công ích, người học khi đi làm không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân mà còn mang lại nhiều lợi ích cho đất nước.
Tự chủ là không còn cơ chế xin – cho
Video đang HOT
Bản chất của tự chủ đại học là thiết lập được hành lang pháp lý phù hợp để các trường đại học được quyền tự quyết trong các hoạt động của mình, thay cơ chế dưới đề xuất – trên phê duyệt (cơ chế xin – cho) bằng cơ chế thực hiện – báo cáo – giải trình – hậu kiểm.
Mức độ tự chủ được xác định bằng việc số các hành lang pháp lý nhiều hay ít, mỗi hành lang rộng hay hẹp. Mức độ hợp lý của các hành lang pháp lý là không phải quá rộng để dẫn đến tự do vô chính phủ, nhưng phải đủ rộng, đủ thông thoáng.
“Khi tự chủ sẽ không còn việc các cơ quan quản lý cầm tay chỉ việc như trước đây, khiến các trường muốn làm gì cũng phải hỏi, phải xin phép, phải chờ phê duyệt. Bên cạnh đó, nhà nước vẫn cần hỗ trợ các trường khó khăn, chứ không phải trao quyền cho trường để đổi lấy việc cắt ngân sách” – ông Lê Trường Tùng cho biết.
Tự chủ trong giáo dục đại học cho các trường quyền tự quyết trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Ví dụ trong lĩnh vực chuyên môn, các trường được tự quyết định về chỉ tiêu tuyển sinh theo cách tính toán chỉ tiêu được quy định mà không cần phải chờ cấp có thẩm quyền phê duyệt, trường không cần xin mở ngành mà tự quyết theo quy định về điều kiện mở ngành. Hoặc các trường dựa vào hành lang pháp lý để quyết định liên kết với các trường nước ngoài.
Trước kia, các trường muốn làm những việc nêu trên đều phải xin phép Bộ Giáo dục và Đào tạo, còn bây giờ thì đã có hành lang pháp lý để các trường đại học hoạt động, và các cơ quan quản lý nhà nước cũng dựa vào hành lang pháp lý này để kiểm tra, giám sát.
Cơ quan chủ quản?
Tự chủ trong giáo dục cần hiểu là không còn phải xin – cho, Bộ Giáo dục và Đào tạo không phải đóng vai Ban Tổng Giám Hiệu cầm tay chỉ việc cho các trường đại học nữa. Việc tự chủ không phải khi nào cũng liên quan đến cái gọi là có hay không cơ quan chủ quản.
Ví dụ như một trường đại học thuộc Bộ Công thương với cơ quan chủ quản là Bộ Công thương, nhưng nếu chưa tự chủ thì chỉ tiêu, mở ngành vẫn phải nộp hồ sơ chờ Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét phê duyệt. Khi đó nếu như bỏ cơ quan chủ quản thì sẽ là bỏ sự quản lý của Bộ Công thương hay của Bộ Giáo dục và Đào tạo?
“Trong môi trường tự chủ, các cơ sở giáo dục đại học được chủ động triển khai các hoạt động theo hành lang pháp lý quy định, và trong hành lang pháp lý này quyền quyết định thuộc về trường, không cần phải xin – cho bất kỳ cơ quan nào khác.
Trong Luật Giáo dục Đại học không có khái niệm “cơ quan chủ quản”, mà chỉ còn khái niệm “cơ quan quản lý trực tiếp”, ông Lê Trường Tùng nhấn mạnh.
Trong thể chế xã hội tổ chức theo hình chóp thì nói chung, mỗi một tổ chức theo ngành dọc đều thuộc một tổ chức cao hơn quản lý trực tiếp. Tầm cỡ như các đại học quốc gia cũng có cơ quan quản lý trực tiếp là Chính phủ.
Cần phải hiểu rằng, tự chủ không có nghĩa là tự túc, mà tự chủ cũng không có nghĩa là tự trị. Quyền tự chủ giới hạn trong khung pháp lý, và sẽ không phải là quyền tự do tuyệt đối.
Trong các quy định quản lý nhà nước cũng đã từng có giai đoạn triển khai mạnh việc bỏ bộ chủ quản với các doanh nghiệp nhà nước nhằm 3 mục đích: nâng cao tính tự chủ, tránh ỷ lại; xóa bỏ tính khép kín, cát cứ, cục bộ; đồng thời nhằm tránh cơ quan chủ quản “vừa đá bóng vừa thổi còi”.
Mục tiêu thứ 3 rất quan trọng để tránh tình trạng các bộ ngành vừa quản lý nhà nước vừa có các tổ chức của mình hoạt động trong chính lĩnh vực đó. Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện nay ngoài chức năng quản lý nhà nước thì cũng đang là chủ quản quản lý trực tiếp vài chục trường, và bỏ cơ chế chủ quản liệu có phải là bắt đầu từ Bộ Giáo dục và Đào tạo hay không?
Ông Lê Trường Tùng cho rằng: “Trường nào cũng phải có cơ quan quản lý trực tiếp. Khi nói đến cơ chế chủ quản, việc quan trọng không phải là bỏ hay không cơ các quan quản lý cấp trên, mà có hành lang pháp lý phân định rõ đâu là thẩm quyền của trường, đâu là thẩm quyền của cơ quan quản lý trực tiếp, đâu là thẩm quyền của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trên tinh thần đảm bảo tự chủ cho các trường đại học, không còn cơ chế xin – cho như thời chưa tự chủ trước năm 2019″.
Tầm quan trọng của tự chủ
Theo Diễn đàn Kinh tế thế giới, chất lượng của giáo dục đại học được đo bằng việc có cung cấp được năng lực chất lượng cao để nâng cao ưu thế cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hay không.
Thời buổi kinh tế tri thức và cách mạng công nghiệp 4.0, không còn mạnh thắng yếu, mà là nhanh sẽ thắng chậm. Ưu thế đầu tiên của tự chủ giáo dục đại học là cho phép các trường ra quyết định nhanh hơn, năng động hơn khi được bỏ qua các thủ tục xin – cho gây tắc nghẽn như trước đây.
Cơ chế tự chủ cũng tạo điều kiện cho các trường đẩy mạnh đổi mới sáng tạo trong dạy và học, khi đổi mới sáng tạo đang trở thành điểm nhấn cơ bản của xã hội, của nền kinh tế thông minh dựa trên chuyển đổi số hiện nay.
Ông Lê Trường Tùng nhấn mạnh: “Trường đại học tự chủ thì sẽ có được tầng lớp cán bộ giảng viên tự chủ. Và cũng chỉ tự chủ thì các trường mới có thể hy vọng sinh viên đại học tốt nghiệp – chủ nhân tương lai của đất nước có được tư duy và kỹ năng tự chủ, đổi mới sáng tạo”.
Cuối cùng việc tự chủ không còn xin – cho cũng sẽ góp phần giảm bớt các tiêu cực xã hội do cơ chế xin – cho tạo nên, tạo môi trường giáo dục trong sạch hơn, tử tế hơn.
Ào ạt mở ngành mới bậc đại học
Xu hướng phát triển của các trường ĐH hiện nay là không ngừng mở mới ngành nghề đào tạo. Sự nở rộ này đặc biệt thấy rõ ở khối các trường công lập tự chủ và trường ngoài công lập.
Sinh viên đang theo học tại một trường khối ngành y, dược. Năm nay, nhiều trường đại học mở thêm các ngành sức khỏe - ẢNH: NGỌC DƯƠNG
Có trường tuyển mới 16 ngành năm 2021 !
Nhiều trường ĐH đã công bố thông tin tuyển sinh năm 2021. Điểm mới đáng chú ý trong phương án của nhiều trường là dự kiến mở thêm nhiều ngành mới. Có trường cho biết dự định tuyển trên 10 ngành và chuyên ngành mới trong năm nay. Sau khoảng thời gian 5 - 6 năm, có trường ngành đào tạo bậc ĐH tăng gấp đôi.
Quy định mở ngành đào tạo
Theo thông tư của Bộ GD-ĐT, ngành đăng ký đào tạo phải phù hợp với nhu cầu của xã hội và người học, với yêu cầu nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế xã hội và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của trường. Việc mở ngành phải đáp ứng các điều kiện về đội ngũ giảng viên, cán bộ nghiên cứu cơ hữu, cơ sở vật chất, thiết bị, giáo trình theo yêu cầu từng nhóm ngành nghề khác nhau. Ví dụ, chỉ riêng số tiến sĩ cần có, ngành y khoa cần có tối thiểu 2 tiến sĩ thuộc lĩnh vực khoa học y sinh, 6 tiến sĩ thuộc lĩnh vực y học lâm sàng và 1 tiến sĩ thuộc lĩnh vực y học dự phòng hoặc y tế công cộng.
Năm 2021, Trường ĐH Kinh tế TP.HCM công bố tuyển sinh 29 ngành và chuyên ngành cho cơ sở chính tại TP.HCM. Trong số này, có 11 ngành và chuyên ngành mới lần đầu được tuyển sinh trong năm nay. Cụ thể gồm: kinh tế đầu tư, bất động sản, quản trị nhân lực, kinh doanh nông nghiệp, kiểm toán, thương mại điện tử, luật kinh tế, quản lý bệnh viện, ngành kiến trúc và thiết kế đô thị thông minh, chuyên ngành quản trị công nghệ và đổi mới sáng tạo (thuộc ngành quản trị kinh doanh), chuyên ngành quản trị tín dụng (thuộc ngành tài chính - ngân hàng). Trước đó, năm 2020 Trường ĐH Kinh tế TP.HCM đã mở thêm 5 ngành và chuyên ngành mới. Năm 2019, trường này có tất cả 17 ngành và chuyên ngành.
Trường ĐH Công nghiệp TP.HCM cũng dự kiến tuyển sinh mới 6 ngành và chuyên ngành mới trong năm nay. Như vậy, trường có tổng số 41 mã ngành đào tạo (không tính chương trình liên kết, chương trình chất lượng cao và các chuyên ngành). Nếu tính tổng cộng các ngành và chương trình, thí sinh có trên 50 lựa chọn khác nhau. Ở thời điểm năm 2016, trường này thêm 15 ngành học mới. Trước đó, năm 2015 trường này mới chỉ có 20 ngành đào tạo bậc ĐH.
Tốc độ phát triển về số lượng ngành đào tạo bậc ĐH của khối trường ngoài công lập càng "chóng mặt" hơn.
Chẳng hạn, Trường ĐH Văn Lang sẽ tuyển sinh 50 ngành đào tạo bậc ĐH trong năm 2021, chưa kể một số ngành mới dự kiến liên quan đến khối ngành sức khỏe. Trước đó vào năm 2016, trường này chỉ có 18 ngành đào tạo.
Trường ĐH Hoa Sen cũng dự kiến tuyển mới 11 ngành (trong đó có 4 ngành khối sức khỏe), nâng tổng số ngành đào tạo của trường năm 2021 lên 39 ngành. So với thời điểm năm 2011, trường này đã tăng thêm 25 ngành đào tạo bậc ĐH.
Đặc biệt, năm 2021 Trường ĐH Quốc tế Hồng Bàng công bố dự kiến tuyển sinh 68 ngành học, trong đó sẽ mở mới 16 ngành. Trong số các ngành mới, riêng nhóm ngành sức khỏe có 8 ngành gồm: y học cổ truyền, kỹ thuật hình ảnh y học, sức khỏe răng miệng, hộ sinh, dinh dưỡng, chăm sóc bệnh trẻ em, hoạt động trị liệu, quản lý bệnh viện. Một số ngành mới dự kiến khác gồm: bất động sản, kỹ thuật y sinh, công nghệ sinh học y dược, tâm lý học, quản trị sự kiện, quan hệ công chúng, giáo dục tiểu học và quản lý giáo dục. Chỉ sau 4 năm, số ngành đào tạo của trường này đã tăng hơn gấp đôi (năm 2017 trường tuyển sinh 31 ngành).
Mở nhiều ngành mới để trở thành trường đa ngành ?
GS-TS Nguyễn Trọng Hoài, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế TP.HCM, cho biết trong số 11 ngành và chuyên ngành mới dự kiến tuyển sinh năm nay, có 10 ngành được nâng cấp từ chuyên ngành thành ngành và chỉ 1 ngành hoàn toàn mở mới là kiến trúc và thiết kế đô thị thông minh.
"Đặc thù của trường từ trước nay là có nhiều chuyên ngành thuộc ngành, nay các chuyên ngành phát triển đủ mạnh để tách thành ngành nên đảm bảo các điều kiện đã có từ trước. Do vậy dù số lượng ngành tăng lên nhưng tổng chỉ tiêu các năm gần như không đổi", ông Hoài nói. Việc phát triển các ngành này, theo ông Hoài, là đáp ứng quy định pháp luật, nhu cầu nhân lực và xu hướng chung thế giới.
Gần với quan điểm này, tiến sĩ Nguyễn Trung Nhân, Trưởng phòng Đào tạo Trường ĐH Công nghiệp TP.HCM, khẳng định việc phát triển các ngành đào tạo không nhắm đến mục tiêu mở rộng quy mô tuyển sinh. Vì dù tăng thêm 6 ngành nhưng tổng chỉ tiêu năm 2021 dự kiến vẫn tương đương năm ngoái, khoảng 8.000.
Những ngành học nào cần nhu cầu nhân lực trong thời gian tới?
Ông Đỗ Thanh Vân, Phó giám đốc Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động TP.HCM, cho rằng hầu hết những ngành học mà các trường ĐH mới mở để tuyển sinh, tại TP.HCM đều có nhu cầu nhân lực trong thời gian tới.
Ông Vân cho biết: "Thành phố phát triển theo hướng chú trọng công nghiệp phần mềm, kỹ thuật số trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng cao.
Vì thế, trong tương lai, nhu cầu lao động sẽ tập trung tại các phân ngành, lĩnh vực thuộc danh mục các sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao được thành phố ưu tiên phát triển như sản xuất các sản phẩm, linh kiện, thiết bị tin học, viễn thông, nghe nhìn, sản xuất phần mềm và nội dung số.
Trong một vài năm tới, nhu cầu nhân lực tiếp tục tăng mạnh với các vị trí như an ninh mạng, lập trình, phát triển ứng dụng, thiết kế và điều hành web, thiết kế và thực hiện quy trình công nghệ, kỹ sư điện tử, thiết kế vi mạch, kỹ thuật viên điện tử, bảo trì hệ thống điện tử...".
Bên cạnh đó, theo ông Vân, cùng với sự phát triển vũ bão của internet, thương mại điện tử sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, là một yếu tố để các trường có thể đẩy mạnh đào tạo những ngành này, cụ thể là đào tạo chuyên môn để sinh viên tốt nghiệp có thể làm các công việc như giám sát viên marketing, quản lý kế hoạch kỹ thuật số, tiếp thị số, điều phối viên truyền thông, người viết quảng cáo...
"Logistics đã được một số trường đào tạo nhưng số lượng cung chưa đủ cầu. Thời gian tới cần rất nhiều nhân lực phục vụ chuỗi cung ứng, với các vị trí nhân viên chứng từ, thanh toán quốc tế, thu mua, nhân viên hiện trường/giao nhận, nhân viên điều vận đội xe/bãi, quản lý hàng hóa... Trong khi đó, nhóm ngành dịch vụ cá nhân - chăm sóc sức khỏe và y tế cũng cần nhân lực và đứng thứ 6 trong số 12 nhóm ngành nghề tại TP.HCM", ông Thanh Vân thông tin thêm.
Mỹ Quyên
"Thực ra ngoài những ngành mới hoàn toàn do sự thay đổi của thực tiễn cuộc sống thì các ngành mới của trường có thể xem là sự chuyên môn hóa các lĩnh vực ngành nghề. Thay vì một ngành rất chung, trường phát triển ngành thành những ngành chuyên sâu hơn nhằm tạo điều kiện cho người học cơ hội tìm kiếm việc làm sát hơn trong một lĩnh vực nghề nghiệp", ông Nhân phân tích.
PGS-TS Hồ Thanh Phong, Hiệu trưởng Trường ĐH Quốc tế Hồng Bàng, cho biết trong số 68 ngành và chuyên ngành của trường, có 13 ngành và 3 chuyên ngành dự kiến mở mới trong năm nay. Trong số này, còn có 8 ngành chương trình liên kết quốc tế và 9 ngành đào tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh từ những ngành đã có của trường. Do vậy, hiện trường chỉ có chính thức 35 mã ngành tuyển sinh.
Lý giải việc đẩy mạnh mở nhiều ngành trong năm nay, theo ông Phong, các điều kiện về giảng viên, cơ sở vật chất nhà trường tự tin đáp ứng đầy đủ các điều kiện mở ngành. "Nhà trường tuân thủ nghiêm ngặt các quy định chung", hiệu trưởng này cho hay.
Ông Phong nói thêm: "Điều đầu tiên trường quan tâm khi mở ngành là xác định nhu cầu của thị trường lao động trong 5 - 10 năm tới. Vì nếu xã hội không cần thì sinh viên sau này ra trường sẽ không có việc làm hoặc mức lương rất thấp".
Tuy nhiên, một trong những lý do quan trọng để các trường mở thêm nhiều ngành, thậm chí không liên quan đến những ngành đang đào tạo tại trường, theo GS-TS Nguyễn Trọng Hoài, luật Giáo dục ĐH mới cho phép các trường ĐH đủ điều kiện phát triển thành ĐH. Muốn vậy, một trong các điều kiện là trường phải phát triển đa ngành và đa lĩnh vực. Như vậy, với ngành kiến trúc và thiết kế đô thị thông minh được mở trong năm nay, Trường ĐH Kinh tế TP.HCM chính thức bước sang lĩnh vực đào tạo khác ngoài lĩnh vực kinh tế.
Giáo dục đại học: Càng tự chủ bao nhiêu càng cần tự thanh, kiểm tra bấy nhiêu Lần đầu tiên Bộ GD&ĐT đã tổ chức Hội nghị Công tác thanh tra nội bộ các cơ sở giáo dục ĐH, không phân biệt trường công - trường tư, trường thuộc Bộ GD&ĐT và không thuộc. Theo đó, công tác thanh tra nội bộ trong các trường ĐH cần được nhận thức đúng vai trò. Và giáo dục ĐH càng tăng cường...