Tổng chủ biên sách giáo khoa Cánh Diều chia sẻ điều đặc biệt trong cuốn Tiếng việt lớp 2
Sách Tiếng việt lớp 2 của bộ sách giáo khoa Cánh Diều, sau khi kết thúc hai chủ đề học, học sinh sẽ có một bài đánh giá các kỹ năng của mình đã làm được.
Vậy những thú vị được tiết lộ trong cuốn sách này là gì?
Thời lượng học 350 tiết
Theo ông Nguyễn Minh Thuyết – Tổng chủ biên chương trình giáo dục phổ thông năm 2018, Tổng chủ biên bộ sách giáo khoa tiếng việt; ngữ văn thuộc bộ sách Cánh Diều, Chủ biên sách giáo khoa Tiếng việt 2 cho biết: “Thời lượng học trong 350 tiết một năm học tức là 10 tiết trong 1 tuần. Toàn bộ hai cuốn sách Tiếng việt có 31 bài học chính, mỗi bài học chính phục vụ cho một chủ điểm nhỏ”.
Cụ thể: Ví dụ bài 3: Học chủ điểm nhỏ là bạn bè của em, bài 4 chủ điểm em yêu bạn bè. Cứ hai bài thì phục vụ cho chủ điểm lớn.
Bên cạnh 31 bài học chính có 4 bài ôn tập giữa học kỳ và cuối học kỳ, cuối năm học. Các bài học này được học theo chủ đề. Chủ đề thứ nhất: Em là búp măng non – chủ đề thiếu nhi; Chủ đề thứ 2: Em đi học – chủ đề nhà trường; Chủ đề thứ 3: Em ở nhà – chủ đề gia đình; Chủ đề thứ 4: Em yêu thiên nhiên; Chủ đề thứ 5: Em yêu tổ quốc Việt Nam.
Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết.
Giáo sư Thuyết cũng nhấn mạnh về cách rèn luyện 4 kỹ năng đọc – viết – nghe – nói của sách giáo khoa Tiếng viết lớp 2 của bộ sách Cánh Diều.
Mỗi một bài sẽ có hai bài học (bài đọc), riêng bài ôn tập có ba bài đọc. Bên cạnh đó, cứ 2 tuần một lần học sinh được bố trí 2 tiết tự đọc sách/báo.
“Tức là các em tự mang sách báo ở nhà đến đọc. Tất nhiên, nếu các em không mang sách báo đến trong sách giáo khoa đã cũng cấp sẵn một bài để cho học sinh nào không có sách báo có thể đọc”, GS Thuyết cho biết.
Bên cạnh đó, các bài đọc như mục lục sách, thời khóa biểu, thời khóa biểu, dạy sách học sinh… thì chuyển sang tiết tự đọc sách báo, tiết nói và nghe để hỗ trợ cho học sinh các kỹ năng như: đọc – viết – nói – nghe.
Đối với việc khai thác bài đọc, mỗi bài đọc trong sách sẽ được khai thác theo hai dạng câu hỏi, thứ nhất là các dạng câu hỏi đọc hiểu, giúp cho học sinh hiểu được nội dung của bài đọc.
Thứ 2 bài luyện tập có hai bài luyện tập ứng dụng, giúp cho học sinh khai thác, ứng dụng văn học trong bài đọc.
Một kỹ năng khác đó là rèn luyện viết cho học sinh. Thứ nhất là những bài chính tả và tập viết. Bài chính tả có 2 loại đó là chính tả đoạn bài – tức là học sinh được nghe viết hoặc là nhìn viết (chép một đoạn văn nào đó).
Thứ 2 là chính tả âm vần, đây là loại chính tả giúp học sinh nắm chắc được các quy tắc khi nào viết vần C; khi nào viết vần K…. từ đó giúp cho học sinh khắc phục các lỗi viết lẫn: N; M; an – am.
Video đang HOT
Đối với bài tập viết đoạn văn – cụ thể trong chương trình học sinh sẽ được viết câu theo mẫu và viết câu thể hiện các nghi thức lời nói.
Loại thứ 2 là viết đoạn văn kể lại chuyện các em đã được tham gia, đã được học.
Loại bài tập viết thứ 3 góc sáng tạo là nơi học sinh được khơi, gợi những ý tưởng sáng tạo của học sinh, giúp cho học sinh vận dụng những kỹ năng như: các em có thể vẽ kết hợp với viết bằng việc làm bưu thiếp… hoặc các em có thể làm các đồ thủ công khác ví dụ như: gấp 1 con chim và viết lên thân con chim đó những thông điệp…
Sách Tiếng việt lớp 2 của bộ sách giáo khoa Cánh Diều.
Chú trọng rèn luyện kỹ năng nghe – nói
Theo Giáo sư Thuyết, các kỹ năng nghe và nói của học sinh được rèn luyện qua 5 dạng bài tập.
Thứ nhất: kể chuyện em đã học. Ví dụ: các em đã học một bài tập đọc rồi bây giờ các em kể lại câu chuyện đó.
Thứ 2: kể chuyện được nghe thầy cô kể. Giáo viên kể và học sinh sẽ kể lại theo gợi ý hoặc theo tranh.
Thứ 3: kể chuyện mà các em được chứng kiến, tham gia: kể một việc làm tốt; các em thể hiện tình cảm yêu thương ông bà.
Thứ 4: học sinh nghe và nêu lại nội dung chính hay một vài nhận xét về bản tin dự báo thời tiết của địa phương hoặc về một bài hát nào đó.
“Tức là học sinh phải nghe được bài hát và phát biểu nội dung của bài hát đó. Học sinh cũng cần được nghe bản tin dự báo thời tiết rất là vắn tắt của một địa phương, ở địa phương nào thì lấy bản tín địa phương đó để cho các em nói lại hôm nay nóng hay lạnh; có mưa hay nắng … các hiện tượng bất thường như thế nào?”, ông Thuyết giải thích.
Và kiểu bài tập cuối cùng là bài tập kỹ năng nghe nói cho học sinh đó là quan sát một đồ vật có thể là đồ dùng học tập, có thể là đồ chơi của các em… đây là một trong những yêu cầu của chương trình luyện nghe và luyện nói trong học sinh.
Học sinh được hướng dẫn tự đánh giá
Đó là điểm đặc biệt được Tổng chủ biến sách Tiếng việt lớp 2 nhấn mạnh.
Trong cuốn sách Tiếng việt lớp 2 có phần rất mới là hướng dẫn học sinh tự đánh giá. Cụ thể: Trong sách giáo khoa tiếng Việt, cứ 2 bài lớn kết thúc học sinh sẽ có phần tự đánh giá. Theo đó, sách giáo khoa đã cho một cái bảng đánh giá, liệt kê theo hai cột với 2 nội dung: 1 cột là Em đã biết những gì và 1 cột là: Em đã làm được những gì?
Theo đó học sinh sẽ được hướng dẫn về nhà hay là ngay tại lớp các em đánh dấu tích vào những dòng chữ, không đánh dấu ở sách giáo khoa nhưng sẽ có vở bài tập đánh dấu 2 cột để cho các em đánh dấu tích vào hoặc là các em có thể viết vào trong vở ô li và đánh dấu tích vào những điểm mà mình đã làm được.
Tiếng Việt 2 Cánh Diều: Giúp học sinh phát triển ngôn ngữ và năng lực chung
Năm học 2021-2022, thầy trò nhiều trường Tiểu học cả nước dạy học bộ sách Cánh Diều, trong đó có Tiếng Việt 2 (TV2).
SGK Tiếng Việt 2 Cánh Diều
Với kinh nghiệm đã giảng dạy ở nhiều trường sư phạm, hay ở cương vị quản lý, chỉ đạo dạy học môn Ngữ văn các cấp, tôi thấy văn bản văn học trong SGK này có nhiều ưu điểm vượt trội, đặc biệt giúp học sinh phát triển ngôn ngữ và năng lực chung.
Góp phần phát triển ngôn ngữ và văn học cho học sinh
Các văn bản văn học (gọi chung các bài tập đọc, chính tả, tập viết, kể chuyện) trong TV2 Cánh Diều nằm trong mô hình thiết kế tích hợp, lấy hệ thống chủ đề - chủ điểm làm chỗ dựa để phát triển ngôn ngữ và văn học, các năng lực chung và các phẩm chất chủ yếu cho học sinh.
Cách cấu trúc của sách như vậy là hợp lý. Việc lựa chọn văn bản văn học đưa vào sách theo thời gian, tiến độ thực hiện chương trình vì vậy cũng phải rất khoa học, phải nhịp nhàng gắn kết với việc dạy và học tiếng Việt nói chung. Các nhà làm sách đã làm tốt điều này.
Các chủ đề của văn bản văn học TV2 bắt đầu từ nhân vật học sinh (TÔI) và phát triển theo mối quan hệ giữa nhân vật trung tâm ấy với môi trường xung quanh. Điều này vừa phù hợp với quan điểm giáo dục lấy học sinh làm nhân vật trung tâm, vừa phù hợp với sự phát triển tâm, sinh lý, khả năng nhận thức và tiếp thu của học sinh. Biên độ không gian, thời gian, cảnh, người...được mở dần theo chương trình học cũng là theo sự phát triển cơ thể và trí tuệ học sinh.
Các văn bản văn học được chọn lựa theo trình tự: Tôi - gia đình tôi - trường tôi - đất nước tôi - trái đất của tôi . Ngay từng chủ đề cũng chia ra các chủ điểm. Ví như "TÔI" (Em là búp măng non) cũng chia thành các chủ điểm thiếu nhi và bạn bè, đất nước tôi (quê hương, đất nước)... Không bị "đốt cháy giai đoạn", tầm hiểu biết của học sinh rộng dần mà không choáng ngợp, bỡ ngỡ.
Nội dung kiến thức cần truyền tải đến học sinh tăng dần cùng với độ dài (số lượng tiếng, từ ngữ) của văn bản.
Văn bản văn học phong phú, phù hợp, dễ tiếp nhận
Trong một chủ đề, một bài học giáo dục thường được nhắc lại ở nhiều văn bản văn học với các cách thức thể hiện khác nhau (có khi là thơ, có khi là văn xuôi, của tác giả trong nước và cả ngoài nước...). Tất cả đều không áp đặt, gò ép; học sinh tự cảm nhận, tự thấm bài học về đạo đức, nhân cách, về tình cảm và thái độ sống qua rung động với ý thơ, tình thơ hay nội dung câu chuyện, đoạn văn tả.
Lấy ví dụ bài 1 và bài 2 ở TV2 tập 1. Bài 1,"Cuộc sống quanh em" tập trung giáo dục tình yêu, trách nhiệm lao động bằng 1 bài văn, 1 bài thơ ( Làm việc thật là vui , Mỗi người một việc ). Bài 2, "Thời gian của em" cũng vẫn là giáo dục tình yêu lao động nhưng ở mức cao hơn: Hãy đừng lãng phí thời gian; phải dùng thời gian để làm việc. Bài học 2 có 2 bài thơ ( Ngày hôm qua đâu rồi, Đồng hồ báo thức ), 1 bài văn ( Một ngày hoài phí ).
Tương tự như thế, hai bài học 16 và 17 đều xoay quanh chủ đề tư tưởng dạy trẻ có tình cảm anh em trong gia đình, nhưng bài học sau có "cấp độ" cao hơn bài học trước: Từ sống hòa thuận đến giúp đỡ, cưu mang nhau.
Cách sắp xếp văn bản theo một chùm bài như thế làm cho nhận thức và tình cảm của học sinh được khắc sâu và bền vững. Nhất là cuối mỗi chủ điểm học tập, TV2 đều tổ chức một hoạt động gọi là GÓC SÁNG TẠO. Đó là hoạt động khơi dậy vốn sống đang tích cóp, khả năng sáng tạo và vận dụng những điều đã học vào cuộc sống.
Giàu chất văn và giá trị nghệ thuật
Các văn bản văn học thể hiện trong TV2 rất giàu chất văn chương và có giá trị nghệ thuật. Sợ nhất đối với người dạy Văn ở tất cả các bậc học là dạy Văn trong SGK mà chẳng thấy văn đâu, chỉ là dạy tiếng, dạy từ, dạy đạo lý khô cứng qua các văn bản văn học. Đặc biệt, với SGK cấp tiểu học nếu như thế sẽ vô tình gieo cho lũ trẻ sự "sợ văn". Rất vui là TV 1, 2 Cánh Diều đã tránh được điều này. Có thể nói, các bài thơ, câu chuyện, các đoạn văn miêu tả...đều được chọn lựa kỹ càng, giữ được sự hài hòa giữa giáo dục tư tưởng, kỹ năng sống với tâm hồn và tình yêu, cảm thụ văn học.
Các tác giả là những nhà thơ, nhà văn và các cây bút viết cho thiếu nhi bằng cả tình cảm, nhiệt huyết và tâm hồn trẻ thơ. Có thể kể một số tác giả tiêu biểu,về văn có: Tô Hoài, Nguyễn Quang Sáng, Hồ Phương, Phong Thu, Ngô Quân Miện, Nguyễn Phan Hách, Nguyễn Thái Vận, Từ Nguyên Tĩnh...vv. Về thơ có: Hồ Chí Minh, Huy Cận, Trần Lê Văn, Hữu Thỉnh, Xuân Quỳnh, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Hoàng Sơn, Nguyễn Trọng Hoàn, Nguyễn Lãm Thắng. Ấy là chưa kể sự có mặt của các nhà văn nổi tiếng thế giới qua các bản dịch vừa sát, vừa "Việt hóa của Vũ Ngọc Bình, Vũ Nho, Lương Hùng...vv.
Chẳng hạn đoản văn "Làm việc thật là vui" của Tô Hoài là những câu văn ngắn; chỉ trừ đoạn cuối, các đoạn trên, mỗi đoạn chỉ một, hai câu. Mỗi đoạn lại là một phân cảnh mở dần: Từ trong nhà (cái đồng hồ), đến chuồng gà (tiếng gà), ra ngoài vườn (tu hú, chim sâu, cành đào)... rất sinh động. Cảnh vật và vật đều hoạt động, đều làm việc. Đoạn văn ngắn mà rộn ràng âm thanh, rực rỡ sắc màu. Cái hay của câu cuối không ở tả mà ở kể: Bé vui vì mình không lạc lõng.
Mang cuộc sống vào bài học, đưa bài học vào cuộc sống
Đây cũng là mục tiêu, phương châm, ý chí của các nhà soạn sách Cánh Diều. Ý chí thôi chưa đủ, người làm sách phải thực sự là các nhà khoa học, các nhà giáo dục "luôn lắng nghe và thấu hiểu". TV 2 là kết quả của quá trình lao động nghiêm túc, trí tuệ, trách nhiệm của nhóm tác giả Cánh Diều.
Đọc bài thơ văn xuôi "Rơm tháng mười" của Nguyễn Phan Hách (TV2 tập 2, trang 102), nhiều từ láy được sử dụng ( óng ánh, ngầy ngậy... ). Nhiều so sánh được lựa chọn ( nắng hanh trong như hổ phách ; rơm trải như tấm thảm khổng lồ ...). Hình ảnh gợi cảm, gợi tả xuất hiện, có màu sắc, hương thơm, ánh sáng, có hoạt động của cảnh, nhất là của người - những đứa trẻ thôn quê. Tả rơm mà thấy cả không gian, không khí làng quê. Không thể không tự hào về "quê" với trẻ nông thôn, không thể không ao ước về nông thôn với trẻ thị thành, khi đọc bài văn này!
Trong TV2, cả hai tập, số lượng thơ khá nhiều. Ngoài các bài đọc là thơ, những bài thơ, khổ thơ hay còn được giới thiệu qua các bài chính tả. Điều này rất phù hợp với tâm lý lứa tuổi. Tứ thơ, lời thơ dễ hiểu. Phần lớn các bài thơ chú trọng phép nhân hóa, so sánh, cũng giúp trí tưởng tượng của học sinh được bay bổng.
"Cái trống trường em" của Thanh Hào (TV2 tập 1, trang 40) là bài thơ hay, thể hiện đúng tâm trang của học sinh ngày tựu trường (nhớ trường, nhớ thầy, nhớ bạn, nhớ việc học hành). Hay ở cách nói: Trẻ nghĩ về trống đấy, trống cũng là bạn, cũng nghĩ suy và tâm trạng như trẻ. Lối nhân hóa được dùng thật đắt. Thể thơ 4 chữ rất phù hợp.
"Nghe thầy đọc thơ" của Trần Đăng Khoa (TV2 tập 1, trang 67) lại là bài thơ nói đúng và hay về tâm trạng, về khiếu thẩm thơ của trẻ nhỏ. Bài thơ đưa trẻ đến với bao tốt đẹp quanh mình, từ thiên nhiên đến con người. Bài thơ nhiều sáng tạo ở vận dụng lối đảo từ ( đỏ nắng, xanh cây ), nhiều từ tượng thanh, tượng hình ( mái chèo nghiêng mặt sông, rào rào. ..), cách tưởng tượng rất tinh tế (gió thổi mà bảo trăng thở; tiếng thầy như tiếng của bà năm xưa...).
Chất thơ ở bài thơ lục bát đậm chất ca dao "Em yêu nhà em" của Đoàn Thị Lam Luyến (TV2 tập 2, trang 105) là cách tả con vật, cảnh vật vừa như bằng các giác quan vừa bằng tưởng tượng, liên tưởng. Tiếng chim sẻ líu lo, tiếng gà cục tác,dáng cây chuối mật như người bà "lưng ong", bắp ngô như ông có bộ "râu hồng" thì nghe thấy, nhìn ra mà tưởng tượng. Từ con cá cờ mà nhớ chị Tấm; nghe tiếng ếch, tiếng dế mà tưởng như đời sống của trẻ thơ: học bài, ngâm thơ. Thật thú vị! Câu kết bài thơ lại dung dị, dung dị một điều có chiêm nghiệm: Dù đi xa thật là xa/Chẳng đâu vui được như nhà của em!
Hữu Thỉnh ở "Để lại cho em" (TV2 tập 1, tr 128) bằng lời kể thủ thỉ, bài thơ tưởng chẳng có gì để nói. Bởi câu chuyện và từ ngữ rất gần gũi thân thuộc. Nhưng người lớn đọc, rồi trẻ thuộc lại thấy rưng rưng. Cái ngoan của chị ở khắp bài thơ: chị biết giữ gìn cẩn thận áo quần, dép mũ; chị biết vượt qua ốm đau, trẻ nào chả mắc; chị biết giữ vệ sinh, tay chân lúc nào cũng sạch sẽ; chị yêu mẹ, cha: "quàng qua cổ mẹ, thơm thơm thơm thơm". Bằng tuổi em, chị đã rất ngoan, chị là tấm gương ngay bên em để em học. Chất thơ của bài thơ không ở nhịp, ở vần, ở từ ngữ lạ lùng mà ở việc làm, ở chị và cả ở em!
Từ các văn bản văn học, TV2 từng bước làm giàu vốn từ, yêu quý, trân trọng tiếng Việt. Từ những bài thơ dễ thuộc, câu chuyện dễ nhớ, TV2 đem đến cho học sinh hứng thú đọc văn, tìm hiểu văn và yêu văn.
Tiếng Việt 1 Cánh diều đã được đông đảo các trường tiểu học cả nước chọn dạy trong năm học trước. Năm học này, TV1 có chỉnh lý cùng với TV 2 của Cánh Diều đang được chào đón, tiếp nhận, sử dụng với số lượng lớn. Đó là một sự lựa chọn đúng.
Ninh Bình phê duyệt danh mục sách giáo khoa lớp 1, lớp 2, lớp 6 Quyết định phê duyệt Danh mục sách giáo khoa lớp 1, lớp 2, lớp 6 sử dụng trong cơ sở giáo dục phổ thông trên địa bàn tỉnh Ninh Bình cho thấy đầu sách các môn học được lựa chọn khá đa dạng từ các bộ sách. Lựa chọn SGK lớp 1, 2, 6 của tỉnh Ninh Bình khá đa dạng. Cụ thể...