Sau thành công phổ cập GD cho trẻ mầm non 5 tuổi – hướng tới mục tiêu nào?
Phổ cập GD mầm non cho trẻ 5 tuổi, sau 10 năm đạt được thành quả tốt đẹp. Hệ thống trường lớp được mở rộng, kiên cố hóa.
Vụ trưởng Nguyễn Bá Minh thăm vườn rau của HS Trường MN Thái Tân ( huyện Nam Sách, Hải Dương). Ảnh: TG
Đội ngũ GV từ hưởng lương bằng thóc lúa nay hưởng mọi chế độ (lương, bảo hiểm, bồi dưỡng chuyên môn…). Theo PGS.TS Nguyễn Bá Minh, Vụ trưởng Vụ GDMN (Bộ GD&ĐT), thành quả trên là tiền đề vững chắc để thầy cô, nhà trường và toàn ngành hướng đến mục tiêu tiếp theo, trước mắt là hoàn thiện chương trình GDMN sau năm 2020 và phổ cập GDMN trẻ 4 tuổi.
Đổi thay trong từng nhà trường
- Thưa ông, sau 10 năm thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, Đề án đã được những mục tiêu nào?
- Đề án Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi (PCGDMNTNT) được Chính phủ phê duyệt năm 2010 với mục tiêu: Bảo đảm hầu hết trẻ em 5 tuổi ở mọi vùng miền được đến lớp để thực hiện chăm sóc, giáo dục 2 buổi/ngày, đủ một năm học, nhằm chuẩn bị tốt về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ, tiếng Việt và tâm lý sẵn sàng đi học, bảo đảm chất lượng để trẻ em vào lớp 1.
Đây là chủ trương đúng đắn, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước với thế hệ tương lai của đất nước. Đề án được toàn xã hội quan tâm và huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc. Vượt qua nhiều khó khăn, trong hơn 10 năm qua, chúng ta thực hiện thành công các mục tiêu PCGDMNTENT, tạo nên diện mạo mới đối với GDMN.
Có thể thấy, mạng lưới trường lớp mầm non được củng cố, mở rộng và phân bố đến hầu hết các địa bàn dân cư xã, phường, thôn, bản. Mỗi phường xã có ít nhất 1 trường mầm non công lập. Đến nay, tăng khoảng 2.600 trường so với năm 2010. Cả nước hiện có 201.605 phòng học, số phòng học được xây mới trong 10 năm là 105.639 phòng, trong đó, có 156.642 phòng kiên cố (chiếm tỷ lệ 77,7%, tăng 28,3%); đồ dùng đồ chơi tối thiểu được trang bị ở hầu hết các lớp 5 tuổi.
Video đang HOT
Một điều đáng mừng là đội ngũ GV mầm non được nâng cao cả về số lượng và chất lượng, chế độ chính sách được bảo đảm. Từ chỗ phần lớn GVMN chưa được hưởng chế độ của viên chức (chỉ được chi trả theo hợp đồng lao động với mức lương thấp, thậm chí có nơi GVMN hưởng thóc lúa, cuộc sống bấp bênh), đến nay các cô được hưởng chế độ chính sách như viên chức Nhà nước.
Đáng chú ý, tỷ lệ huy động trẻ đến trường tăng mạnh. Tổng số trẻ mầm non được đến trường là 5.306.501 trẻ em (tăng 1.535.018 trẻ so với năm học 2010 – 2011). Trong đó, có 1.637.266 trẻ mẫu giáo 5 tuổi (tăng 333.489 trẻ). Năm 2019, tỷ lệ huy động trẻ em 5 tuổi đạt 99,6% (tăng 3,56% so với năm 2011). Tỷ lệ trẻ em mẫu giáo 5 tuổi hoàn thành Chương trình giáo dục mầm non đạt 99,9% (tăng 21,3%). Tỷ lệ trẻ em mẫu giáo được học 2 buổi/ngày đạt 99% (tăng 21,3%).
- Từ thực tế triển khai PCGDMNTENT, ông tâm đắc nhất điều gì?
- Đổi thay về chất lượng là điều có thể nhìn thấy rõ nhất. Đó là những đổi mới của chương trình GDMN; nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục đã chuẩn bị cho trẻ về thể chất, tâm lý, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm, kỹ năng xã hội. Nhờ đó, trẻ vào lớp 1 mạnh dạn, tự tin, ham hiểu biết, thích đi học. Như vậy có thể nói chất lượng nuôi dạy đã nâng lên một bước.
Có thể nhận thấy điều này ở tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em trong các cơ sở giáo dục mầm non giảm dần qua các năm, tỷ lệ thừa cân béo phì được khống chế. Trẻ em mẫu giáo có hoàn cảnh khó khăn được Nhà nước hỗ trợ tiền ăn trưa. Trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ khuyết tật được quan tâm phát hiện sớm, can thiệp sớm và học hòa nhập, góp phần nâng cao tỷ lệ huy động trẻ em đến trường.
Trẻ tham gia hoạt động ngoại khóa tại Trường MN Thái Tân (huyện Nam Sách, Hải Dương). Ảnh: TG
Hướng tới phổ cập cho trẻ 4 tuổi
- Thực tế nhiều địa phương vẫn gặp khó khăn về biên chế, về tỷ lệ huy động trẻ ở độ tuổi khác còn thấp. Hướng khắc phục trong thời gian tới thế nào?
- Qua triển khai cho thấy còn nhiều hạn chế cần sớm khắc phục. Đó là tỷ lệ huy động trẻ các độ tuổi có sự chênh lệch đáng kể giữa các vùng, miền; đặc biệt tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo 3, 4 tuổi nhiều địa phương còn thấp. Tình trạng thiếu giáo viên vẫn chưa được khắc phục. Đặc biệt, tỷ lệ giáo viên/lớp thấp một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung. Triển khai chậm chế độ chính sách với giáo viên hợp đồng lao động.
Khảo sát từ các địa phương cho thấy, năm học 2019 – 2020, cả nước thiếu 45.242 giáo viên trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập (sau khi đã được bổ sung 20.300 biên chế). Đội ngũ thiếu dẫn đến áp lực nặng nề hơn đối với giáo viên đứng lớp, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn, hạn chế trong nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.
Khắc phục việc này, Bộ GD&ĐT sẽ cùng với các địa phương triển khai hiệu quả hơn nữa đầu tư cơ sở vật chất trường lớp. Khuyến khích địa phương tuyển dụng đủ số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ; bảo đảm các điều kiện nhằm duy trì và nâng cao chất lượng PCGDMNTNT. Bộ cũng sẽ thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn vướng mắc ở cơ sở với công tác đạt chuẩn PCGDMNTNT.
- Trên đà những thành quả của PCGDMNTNT, Bộ GD&ĐT đã tính đến phương án phổ cập GDMN cho trẻ 4 tuổi, thưa ông?
- Bộ GD&ĐT đã giao Vụ GDMN chủ trì, phối hợp các bộ ngành, đơn vị, xây dựng trình Chính phủ Đề án PCGDMN cho trẻ 4 tuổi. Các địa phương xây dựng Kế hoạch, xác định giải pháp và lộ trình triển khai thực hiện Đề án PCGDMN cho trẻ em 4 tuổi vững chắc, bảo đảm chất lượng, tính khả thi.
Đặc biệt, tham mưu chính quyền địa phương khẩn trương tuyển dụng giáo viên còn thiếu theo định mức để kịp thời đáp ứng quy mô trường, lớp và nhu cầu chăm sóc giáo dục trẻ mầm non. Đồng thời, từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ đáp ứng yêu cầu chăm sóc giáo dục trẻ trong bối cảnh hội nhập và quốc tế hóa. Triển khai Nghị quyết số 102/NQ-CP về giải pháp đối với biên chế sự nghiệp giáo dục và y tế.
Để thực hiện, chúng tôi cũng yêu cầu các địa phương ban hành Kế hoạch và Văn bản hướng dẫn thực hiện đầy đủ, hiệu quả, kịp thời các chế độ chính sách quy định tại Nghị định sách với trẻ em và GVMN theo Nghị định số 105/2020/ NĐ-CP; các chế độ, chính sách khác với cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên. Trong đó, ưu tiên chính sách hỗ trợ giáo viên tại vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo.
- Xin trân trọng cám ơn ông!
Bổ sung đối tượng được miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập
Học sinh trung học cơ sở ở thôn, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo kể từ năm học 2021-2022 được miễn học phí.
Ảnh minh họa
Đây là đề xuất của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại dự thảo Nghị định quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục đào tạo để thay thế Nghị định 86/2015/NĐ-CP.
Quy định về đối tượng miễn, giảm học phí; hỗ trợ chi phí học tập, dự thảo bổ sung một số đối tượng mới, cụ thể như sau: Khoản 5 Điều 99 Luật Giáo dục năm 2019 đã quy định: "Trẻ em mầm non 05 tuổi và học sinh trung học cơ sở được miễn học phí theo lộ trình do Chính phủ quy định". Thực hiện quy định này tại Luật Giáo dục năm 2019, dự thảo Nghị định dự kiến bổ sung thêm các đối tượng được miễn học phí theo lộ trình, cụ thể:
- Học sinh trung học cơ sở ở thôn, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo kể từ năm học 2021-2022 (từ ngày 01 tháng 9 năm 2021) được miễn học phí.
- Trẻ em mầm non 05 tuổi ngoài đối tượng ở thôn, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo kể từ năm học 2023-2024 (từ ngày 01 tháng 9 năm 2023) được miễn học phí.
- Học sinh trung học cơ sở ngoài đối tượng ở thôn, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo kể từ năm học 2025-2026 (từ ngày 01 tháng 9 năm 2025) được miễn học phí.
Việc thực hiện chính sách miễn học phí theo lộ trình cho toàn bộ trẻ mầm non 05 tuổi và học sinh trung học cơ sở sẽ đảm bảo điều kiện thực hiện đúng chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước về mục tiêu từng bước phổ cập giáo dục từ cấp học mầm non đến trung học cơ sở.
Đồng thời tạo cơ hội cho học sinh giữa các vùng miền trong độ tuổi đều được tiếp cận với giáo dục, giảm bớt khó khăn cho gia đình và xã hội, hạn chế tình trạng bỏ học và tăng tỷ lệ trẻ em đến trường, góp phần thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục.
- Về mức hỗ trợ chi phí học tập: Tại khoản 3, Điều 11, Nghị định số 86/2015/NĐ-CP đã quy định mức hỗ trợ chi phí học tập là 100.000 đồng/học sinh/tháng để mua sách, vở và các đồ dùng học tập khác. Thời gian được hưởng theo thời gian học thực tế và không quá 9 tháng/năm học.
Tuy nhiên, do Nghị định số 86 được ban hành từ năm 2015, đến nay mức hỗ trợ này không còn phù hợp, nhiều ý kiến cử tri các địa phương cũng đã phản ánh mức hỗ trợ này thấp so với mức chi tiêu hiện nay; vì vậy Bộ GDĐT đề xuất nâng mức hỗ trợ lên 150.000 đồng/học sinh/tháng (tính theo tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng từ năm 2015 đến 2020 là khoảng 49%) để phù hợp với mức chi tiêu thực tế hiện nay, giúp học sinh đối tượng chính sách có hoàn cảnh khó khăn được hỗ trợ thêm kinh phí để mua sắm đồ dùng và dụng cụ học tập.
Trường học ở Đà Nẵng mở tiệm spa cho trẻ mầm non Thiết kế tiệm spa trong trường mầm non, biến hành lang thành con đường trải nghiệm, xây dựng xưởng giấy, xưởng gỗ trong trường... là những cách thức sáng tạo nhiều giáo viên đang làm để khơi gợi sự hứng thú, phát huy tính tích cực ở trẻ mầm non. 5 năm sau khi thực hiện chuyên đề "Xây dựng trường mầm non...