Nợ xấu ám ảnh cạnh tranh chênh lệch lãi suất
Tuần qua, thị trường tiếp tục đón thêm một số ngân hàng thương mại tăng lãi suất huy động. Chênh lệch lãi suất giữa các thành viên đã doãng rộng như giai đoạn căng thẳng 2010 – 2012.
Mức cạnh tranh chênh lệch lãi suất doãng rộng tới gần 2%/năm từng xuất hiện ở giai đoạn căng thẳng thanh khoản trước đây, những năm 2010 – 2012 – Ảnh: Quang Phúc.
Trong quý 3/2018, lãi suất huy động VND bắt đầu tăng lên ở một số điểm cục bộ. Mức cao nhất trên biểu niêm yết khi đó ghi nhận ở 8,3%/năm, tại một ngân hàng thương mại có trụ sở chính tại phía Nam; cộng thêm 0,1%/năm nếu gửi trực tuyến là 8,4%/năm.
Mức cao nhất nói trên đã thay đổi vào cuối quý 4 này, khi một số ngân hàng thương mại nâng mạnh lãi suất để cạnh tranh.
Cụ thể, chỉ trong nửa đầu tháng 12, thị trường liên tiếp xuất hiện các mức cao mới, 8,5%/năm, 8,6%/năm và mới nhất ghi nhận mức 8,7%/năm. Đáng chú ý, đây là những mức cao thay đổi giữa các thành viên, và đã có những ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân quy mô lớn nhập cuộc.
Trong diễn biến trên, vừa qua thành viên lớn là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) cũng đã nhập cuộc, tăng lãi suất ở hầu hết các kỳ hạn. Tuy nhiên, mức tăng tại Vietcombank nhẹ và các kỳ hạn cao nhất hiện chỉ ở 6,8%/năm.
Tại những thành viên lớn khác như VietinBank, BIDV, Agribank, mức cao nhất hiện cũng chỉ xoay trong khoảng 6,8 – 7%/năm cho các kỳ hạn dài.
Video đang HOT
Nhìn chung, ở nhóm ngân hàng thương mại lớn, nhóm đang nắm trên 50% thị phần đã huy động toàn hệ thống, lãi suất vẫn tương đối bình ổn, thậm chí vẫn đang thấp hơn vùng 6,9 – 7,2%/năm áp dụng ở các kỳ hạn dài hơn một năm trước.
Theo đó, với việc tăng mạnh ở một số ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân như trên, cạnh tranh chênh lệch lãi suất huy động trong hệ thống đã doãng rộng từ 1,5%/năm đến gần 2%/năm, phá vỡ vùng chênh lệch chỉ khoảng 1 – 1,5%/năm ổn định hơn một năm qua.
Mức cạnh tranh chênh lệch lãi suất doãng rộng tới gần 2%/năm nói trên từng xuất hiện ở giai đoạn căng thẳng thanh khoản trước đây, những năm 2010 – 2012.
Ở giai đoạn đó, bên cạnh lạm phát leo thang, nợ xấu ngân hàng là một trong những nguyên nhân chính tác động đến lãi suất. Mức độ nợ xấu lên tới hai con số, đặc biệt tại nhóm ngân hàng yếu kém, đặt ra áp lực một lượng vốn lớn ngân hàng đã cho vay nhưng không quay về, bị kẹt trong nợ xấu, dẫn tới thiếu nguồn thu về để chỉ trả, dồn đẩy vòng xoáy huy động mà lãi suất trở thành công cụ cạnh tranh chủ yếu.
Nay, bối cảnh của lãi suất đã khác. Lạm phát năm nay tiếp tục được kiểm soát ở mức thấp. Tăng trưởng tín dụng dự báo có thể ở mức thấp nhất trong bốn năm trở lại đây. Các chỉ số an toàn hệ thống và năng lực tài chính nói chung đã cải thiện so với giai đoạn trước. Nhưng cạnh tranh chênh lệch lãi suất huy động một lần nữa xuất hiện với khoảng cách lớn.
Có những nguyên do khác nhau. Thời điểm cuối năm, yếu tố mùa vụ cao điểm chi trả và lãi suất hàng năm thường tăng lên đoạn này. Nửa cuối năm nay, rủi ro tỷ giá bộc lộ, tác động đến sự dịch chuyển nhu cầu vay ngoại tệ sang vay VND, kích thích yếu tố nguồn. Cuối 2018 một số ngân hàng chịu áp lực huy động để cân đối yêu cầu rút giới hạn sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn; cùng đó một số khoản bị ngoại trừ trong cơ cấu tính vốn tự có mang tính kỳ hạn cần bù đắp theo quy định mới…
Ngoài ra, nợ xấu có xu hướng gia tăng trở lại, ghi nhận trên báo cáo tài chính quý 3/2018 của nhiều ngân hàng thương mại. Có thể ngẫu nhiên, nhưng những thành viên đẩy lãi suất huy động VND lên cao hiện nay đều là những trường hợp đang có xu hướng nợ xấu tăng lên hoặc đang gặp vấn đề về nợ xấu.
Như trên, nợ xấu là phần vốn đã cho vay nhưng hiện không thu hồi về được, không trở về đúng lịch cân đối. Phần vốn này càng gia tăng càng thúc đẩy áp lực huy động để có nguồn cân đối chi trả, nhất là trong thực tế tỷ lệ cho vay so với huy động của hệ thống ngân hàng Việt Nam thường xuyên duy trì ở mức cao, quanh 90% những năm vừa qua và hiện nay.
Minh Đức
Theo vneconomy.vn
Lại gia hạn cho vay ngoại tệ
Thay vì sẽ chính thức dừng cho vay ngoại tệ kể từ ngày 31.12.2018, mới đây Ngân hàng Nhà nước vừa đưa ra một lộ trình ngắn hạn gia hạn cho doanh nghiệp vay ngoại tệ trong năm 2019.
Doanh nghiệp thích vay USD vì lãi suất thấp
ẢNH: NGỌC THẠCH
7 tháng, cho vay 23 tỉ USD
Chiến lược phát triển ngành NH VN đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng phê duyệt quy định giảm dần tỷ lệ tín dụng ngoại tệ/tổng tín dụng, phấn đấu tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán đạt mức dưới 7,5% vào năm 2020 và 5% vào năm 2030, tiến tới ngừng cho vay ngoại tệ để chậm nhất đến năm 2030 cơ bản khắc phục tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế.
Là ngân hàng (NH) dẫn đầu cho vay USD trong hệ thống, tính đến hết tháng 9, Vietcombank đã cho vay hơn 97.443 tỉ đồng (khoảng 4 tỉ USD); VietinBank cho vay 91.014 tỉ đồng (khoảng 3,9 tỉ USD); MB hơn 22.000 tỉ đồng (khoảng 944 triệu USD). Những NH khác có dư nợ cho vay ngoại tệ ở mức 9.000 - 10.000 tỉ đồng... Tỷ trọng dư nợ cho vay ngoại tệ của các nhà băng dao động từ 5,6 - 15% trên tổng dư nợ tùy đơn vị. Tính đến cuối tháng 7, tổng dư nợ cho vay của hệ thống tổ chức tín dụng hơn 6,8 triệu tỉ đồng. Chiếm khoảng 8% trong tổng dư nợ tín dụng, số ngoại tệ mà các nhà băng cho vay vào khoảng 540.000 tỉ đồng, tương đương khoảng 23 tỉ USD; so với những năm trước giảm khoảng 6 tỉ USD.
Thực tế, hầu hết doanh nghiệp (DN) đều mong muốn vay USD bởi lãi suất thấp hơn tiền đồng từ 3 - 5%/năm. Các NH thương mại hiện đang cho vay USD với lãi suất 2,8 - 4,7%/năm đối với các khoản vay ngắn hạn và 4,5 - 6%/năm đối với dài hạn. Trong khi đó, lãi suất cho vay tiền đồng phổ biến ở mức 6 - 9%/năm đối với ngắn hạn và từ 9 - 11%/năm đối với trung và dài hạn.
Chính vì điều này mà trong 5 năm trở lại đây, NH Nhà nước (NN) liên tục gia hạn cho vay ngoại tệ nhằm hỗ trợ DN tiếp cận nguồn vốn giá thấp. Tuy nhiên, cũng có không ít DN sử dụng dòng vốn linh hoạt kiếm lời từ chênh lệch lãi suất. Đơn cử như các DN có tiền đồng nhưng gửi tiết kiệm và đi vay USD có lãi suất thấp hơn. Theo báo cáo tài chính hợp nhất năm 2017 đã kiểm toán của Tập đoàn dầu khí VN (PVN), PVN có 23.037 tỉ đồng tiền gửi NH không kỳ hạn, 49.364 tỉ đồng tiền gửi NH có kỳ hạn không quá 3 tháng và 101.230 tỉ đồng tiền gửi có kỳ hạn từ trên
3 tháng đến không quá 1 năm. Tổng lượng tiền gửi NH của PVN lên đến 173.631 tỉ đồng, chiếm 22% tổng tài sản. Lãi suất của số tiền gửi này tại các NH từ 5,1 - 6,8%/năm. Tuy nhiên, tập đoàn này cũng có hàng loạt hợp đồng vay vốn bằng ngoại tệ với lãi suất từ 1,7 - 5,9%/năm. Doanh thu hoạt động tài chính của PVN trong năm 2017 ghi nhận 14.769 tỉ đồng thì có đến 54% đến từ tiền gửi, tiền cho vay (đạt 7.924 tỉ đồng); chênh lệch tỷ giá 837 tỉ đồng (chiếm 5,7%).
Siết vay ngắn hạn
Theo Thông tư 18/2017 của NHNN, việc cho vay ngoại tệ ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu vốn trong nước nhằm thực hiện phương án sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu đến 31.12.2018. Thế nhưng NHNN mới đưa ra dự thảo gia hạn cho vay ngoại tệ theo lộ trình. Cụ thể, cho vay ngắn hạn để thanh toán ra nước ngoài tiền nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh khi khách hàng vay có đủ ngoại tệ từ nguồn thu sản xuất, kinh doanh để trả nợ vay được thực hiện đến hết ngày 31.3.2019. Đối với cho vay trung, dài hạn để thanh toán ra nước ngoài tiền nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ khi khách hàng vay có đủ ngoại tệ từ nguồn thu sản xuất, kinh doanh để trả nợ vay được thực hiện đến hết ngày 30.9.2019. Dỡ bỏ quy định về giới hạn thời gian đối với nhu cầu vốn vay ngoại tệ để thanh toán chi phí trong nước thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu.
NHNN cho rằng qua số liệu những tháng đầu năm 2018, tín dụng ngắn hạn ngoại tệ liên tục tăng qua các tháng và cao hơn nhiều so với cùng kỳ các năm gần đây do tỷ giá ổn định, dẫn đến việc vay ngoại tệ ngắn hạn có lợi, lãi suất vay USD thấp hơn tiền đồng. Vì vậy tín dụng ngoại tệ ngắn hạn cần phải được kiểm soát chặt chẽ theo hướng thu hẹp dần. Việc sửa đổi, bổ sung quy định cho vay nhằm tiếp tục hỗ trợ DN và nền kinh tế trong việc giảm chi phí vay vốn, từ đó hỗ trợ tăng khả năng cạnh tranh trong thương mại quốc tế, trong bối cảnh bị tác động bất lợi từ xu hướng bảo hộ thương mại toàn cầu tăng cao (đặc biệt là tác động từ xung đột thương mại Mỹ - Trung)...
Một điểm mới trong dự thảo lần này là các khách hàng vay có nhu cầu mua ngoại tệ để trả nợ vay có thể thỏa thuận mua ngoại tệ tại chính NH cho vay hoặc NH khác. NH cho vay ngoại tệ phải có trách nhiệm bán ngoại tệ cho khách hàng để khách hàng trả nợ khoản vay. NHNN cho rằng việc sửa đổi, bổ sung cho vay ngoại tệ nhằm thực hiện đúng cam kết về các nội dung đề án hạn chế đô la hóa, đó là chuyển dần quan hệ vay - gửi ngoại tệ sang quan hệ mua - bán ngoại tệ.
Dự thảo "nắn" dòng tín dụng ngoại tệ của NHNN khiến các DN "thở phào", các NH lên kế hoạch kinh doanh năm 2019 rõ ràng hơn
Theo thanhnien.vn
3 tác nhân làm tăng lãi suất Bên cạnh việc cần vốn để đáp ứng nhu cầu cho vay tăng vào dịp cuối năm, các ngân hàng phải đối mặt với yêu cầu về tỷ lệ vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn, đồng thời, để "nuôi" nợ xấu đang ở mức cao. Đây được coi là những nguyên nhân chính khiến lãi suất các ngân hàng bước vào...