Người tiền sử đến châu Mỹ bằng cách nào?
Một trong những giả thuyết được coi là thuyết phục nhất là người tiền sử đi theo đường bộ suốt 1.450km từ Alaska đến Montana.
Tuy nhiên, nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Đan Mạch, Canada và Mỹ đã bác bỏ giả thuyết này.
Không thể đi bằng đường bộ
Vấn đề người cổ đại di cư đến Bắc Mỹ như nào luôn thu hút giới khoa học. Giả thuyết những cư dân đầu tiên của châu Mỹ đến tân thế giới bằng đường bộ được nhiều người ủng hộ nhất. Nhiều học giả tin rằng vào cuối kỷ băng hà – cách đây 13.000 năm, nhiệt độ bắt đầu tăng, làm tan những khối băng khổng lồ bao phủ Canada và miền bắc nước Mỹ, mở ra một hành lang không băng đá dài 1.450km ngoằn ngoèo từ Alaska đến Montana. Người tiền sử nhờ đó mà di cư từ châu Á sang châu Mỹ.
Tuy nhiên, nghiên cứu mới công bố của Mikkel Winther Pedersen – Trung tâm GeoGenetics, Đại học Copenhagen (Đan Mạch) – đã bác bỏ giả thuyết này – theo Tạp chí Nature. Nhóm đã tái tạo môi trường của hành lang không băng đá để xem nếu chỉ sống bằng săn bắn và hái lượm, người cổ đại có thể vượt qua hành trình dài và gian khổ như vậy không.
Người châu Mỹ bản địa đến từ châu Á cách đây 23.000 năm. (Ảnh: Wikimedia).
Họ cũng nghiên cứu một loạt hồ ở miền tây Canada dọc tuyến đường kể trên, bởi tin rằng dưới đáy hồ vẫn còn nhiều lớp trầm tích cổ đại chứa DNA của hệ động, thực vật khu vực này hàng nghìn năm qua.
Video đang HOT
Lấy mẫu trên mặt hồ băng lạnh đến -300C là một việc khó khăn. Một thách thức nữa là DNA cổ đại đã bị hủy hoại quá nặng để phân tích. Pedersen buộc phải dùng phương pháp “shotgun”: Thu thập tất cả các đoạn DNA trong mẫu vật, phân tích để tìm ra đoạn DNA thuộc về loài nào trước khi sắp xếp lại.
Mọi việc hoàn tất, họ kinh ngạc khi DNA cổ đại từ đáy hồ chỉ ra rằng hành lang không băng đá không thể là môi trường sống của con người cho đến 12.600 năm trước – nhiều thế kỷ sau khi người cổ đại đầu tiên xuất hiện tại châu Mỹ. Điều này cho thấy người tiền sử không đi bộ qua hành lang này.
“Nghiên cứu của chúng tôi đã chỉ ra rằng những hành lang này đơn giản là mở ra quá muộn” – ông Mikkel Pedersen cho biết.
Kết quả này phù hợp với một nghiên cứu mới đây của Beth Shapiro và Peter Heintzman thuộc Đại học California (Mỹ). Họ xây dựng lại cây phả hệ của loài bò rừng sống trong hành lang không băng đá và cũng đi đến kết luận rằng loài này không thể sống tại hành lang cho đến 13.000 năm trước.
Vậy nếu không thể đến châu Mỹ bằng đường bộ, người cổ đại tới đây bằng cách nào? Theo GS Loren Davis – Đại học bang Oregon (Mỹ), có thể họ đi đường biển hoặc kết hợp giữa đi thuyền và đi bộ dọc bờ biển Thái Bình Dương. Tuy nhiên, tìm bằng chứng là việc khó khăn khi hầu hết các địa điểm dọc tuyến đường ven biển đã bị vùi dưới nước.
Người cổ đại đến châu Mỹ theo làn sóng duy nhất
Trước nghiên cứu của Pedersen ít lâu, các nhà khoa học Loren Davis, Maanasa Raghavan và Eske Willerslev – cũng thuộc Trung tâm GeoGenetics, Đại học Copenhagen – đã công bố nghiên cứu đáng chú ý về làn sóng di cư vào châu Mỹ – theo tờ Oregonstate.
Để xác định nguồn gốc của người Mỹ bản địa ngày nay, các chuyên gia đã nghiên cứu trình tự bộ gene của con người hiện đại từ châu Mỹ, Siberia và châu Đại Dương, so sánh chúng với mẫu vật của những người cổ đại từ cả hai chi nhánh của di cư.
Phân tích dữ liệu di truyền cổ xưa và hiện đại, nhóm nghiên cứu phát hiện tổ tiên ngày nay của người châu Mỹ bản địa tiến vào Mỹ một lần duy nhất từ Siberia đến eo biển Bering rồi tỏa đi khắp châu Mỹ cách đây hơn 23.000 năm. Sau đó, làn sóng này chia làm hai nhóm người cổ là Athabascans và Amerindianskhoảng 13.000 năm trước đây.
Họ cũng nêu giả thuyết giống với nhóm của Pedersen, rằng tổ tiên của người châu Mỹ bản địa di chuyển theo một con đường dọc bờ biển Thái Bình Dương trên con đường chinh phục tân thế giới.
Sau đó, các nhóm người Amerindians cũng như Athabascans đã chia tách để tản ra khắp Bắc Mỹ, trong khi các nhóm người chủ yếu là Amerindians tiếp tục tiến về Nam Mỹ theo con đường dọc bờ Thái Bình Dương.
Các nhà khoa học cho rằng giả thuyết này phù hợp một cách chặt chẽ với các bằng chứng khảo cổ học từ thời kỳ tiền sử.
“Nghiên cứu này có ý nghĩa lớn đối với các vấn đề khảo cổ chúng tôi đang theo đuổi. Kết luận tổ tiên người châu Mỹ bản địa có thể đi theo một tuyến đường ven biển Thái Bình Dương để vào châu Mỹ có nghĩa là chúng ta đang đi đúng hướng trên con đường đến với những khám phá quan trọng trong thời gian tới” – ông Davis nói.
Theo Khoa học & Phát triển
Lập bản đồ gene của một trong những sinh vật biển sâu khó nắm bắt nhất trên Trái đất
Trong nhiều thế kỷ, con mực khổng lồ bí ẩn đã trở thành tâm điểm của nhiều truyền thuyết kinh dị và là nỗi sợ hãi của các thủy thủ.
Thông tin và nghiên cứu về mực khổng lồ vẫn là bí ẩn với các nhà khoa học.
Với thân hình dài bằng một chiếc xe buýt trường học và nhãn cầu có kích thước bằng bóng rổ, những chiếc xúc tu khổng lồ có thể tóm lấy con mồi cách xa tới 9 mét. Mặc dù có tỷ lệ khổng lồ, nhưng loài mực khổng lồ hiếm khi được con người nhìn thấy và chưa bao giờ được giữ sống trong điều kiện nuôi nhốt.
Cho đến mới đây, các nhà nghiên cứu từ Đại học Copenhagen và Viện Hải dương học Wood Hole đã và đang tiếp tục đi tìm câu trả lời. Họ bắt đầu với việc xây dựng trình tự toàn bộ bộ gene đầu tiên của thế giới về DNA của mực khổng lồ.
"Chúng ta có rất nhiều điều để tìm hiểu về thế giới sống. Phần lớn thế giới được bao phủ trong đại dương và chúng ta biết khá ít về biển sâu, nơi những loài động vật này sống. Môi trường của mực khổng lồ rất khác với chúng ta, chúng ta có thể tìm hiểu về cách chúng giải quyết những thách thức khi sống trong môi trường đó."", tác giả nghiên cứu Caroline Albertin thuộc Phòng thí nghiệm sinh học biển (MBL) tại Woods Hole nói.
Mặc dù được tìm thấy ở vùng biển sâu trên khắp thế giới, nhưng loài mực khổng lồ khó nắm bắt khiến chúng khó nghiên cứu. Cho đến ngày nay, sinh học, lịch sử sự sống và chu kỳ sinh sản của chúng phần lớn vẫn còn là một bí ẩn. Để bắt đầu ghép lại câu đố, các nhà nghiên cứu đã đưa ra so sánh với bộ gene của con người, cũng như bốn loài động vật chân đầu khác có bộ gene đã được giải trình tự. Động vật chân đầu được cho là đã tiến hóa độc lập với động vật có xương sống. Do đo sánh bộ gene của chúng có thể cung cấp bằng chứng cho điều này.
"Vì mực khổng lồ rất khó nghiên cứu, chúng tôi hy vọng so sánh bộ gene của chúng với các loài động vật chân đầu khác, như bạch tuộc, để hiểu rõ hơn về những động vật ít được nghiên cứu này", Albertin giải thích.
Về mặt gene, con mực khổng lồ trông rất giống các loài động vật khác. Nó có khoảng 2,7 tỷ cặp cơ sở DNA, làm cho bộ gene của mực khổng lồ có thể có kích thước bằng 90% so với người.
Khôi Nguyên
Theo dantri.com.vn/IFL Science
Dòng sông không có nước vẫn có tiếng nước chảy Thú vị thay, mặc dù chỉ là một con sông cạn, lòng sông chất đầy đá lớn, đá nhỏ, thế nhưng đi ngang qua con sông kỳ lạ, người ra vẫn có thể nghe thấy âm thanh khi ào ào, khi róc rách của tiếng nước chảy. Tại khu vực núi Taganay, phía nam dãy Ural thuộc vùng Chelyabinsk Oblas, Nga, có một...