Ngáy to và ngưng thở trong lúc ngủ: Điều trị sớm, tránh biến chứng nguy hiểm
Theo các chuyên gia y tế, ngáy to và ngưng thở trong lúc ngủ hay tình trạng luôn cảm thấy buồn ngủ vào ban ngày…
là một trong những biểu hiện của bệnh ngưng thở khi ngủ (hay còn gọi là ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn). Bệnh dễ gây nhầm lẫn với các bệnh lý khác, nếu không phát hiện và chữa trị sớm, người bệnh có thể đột tử bất cứ lúc nào mà không hề hay biết.
Người mắc hội chứng ngáy và ngưng thở trong lúc ngủ cần được thăm khám, điều trị sớm
Càng béo phì càng dễ mắc bệnh
Là nạn nhân của ngáy và ngưng thở trong lúc ngủ, anh N.T.T. (55 tuổi, ngụ quận 10, TPHCM) kể lại, anh T. bị stress do gặp áp lực trong công việc nên cân nặng của anh tăng nhanh mất kiểm soát. Cách đây 1 năm, anh T. đi khám sức khỏe định kỳ và được bác sĩ chẩn đoán bị béo phì. Anh T. cho biết, nửa năm nay, anh hay bị vợ phàn nàn vì ngủ ngáy to và lúc ngủ hay giật mình bật dậy thở gấp. Vì vậy, vợ anh T. thúc giục anh đến bệnh viện khám bệnh. Với tâm lý e ngại và “ai đời đi khám vì ngủ ngáy to, ngủ mà ngáy là bình thường thôi mà”, anh T. nói, nên anh yêu cầu ngủ riêng. Nhưng gần đây, tình trạng ngủ hay giật mình, bật dậy thở gấp còn có cảm giác hoang mang ngày càng nhiều nên anh T. quyết định đến bệnh viện thăm khám. Anh T. kể, tuần trước anh có đến một phòng khám tư nhân ở huyện Củ Chi để thăm khám, bác sĩ khẳng định do anh bị stress nên khó ngủ chứ không mắc bệnh gì cả.
Không chỉ riêng anh T., theo thông tin từ Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM, số lượng bệnh nhân được khám và đo đa ký giấc ngủ để xác định độ ngưng thở trong lúc ngủ tại bệnh viện gia tăng hàng năm. Cụ thể, năm 2014 có 123 lượt đo, năm 2015 là 185 lượt đo, đến năm 2020 tăng lên 290 lượt.
Video đang HOT
Theo các chuyên gia lĩnh vực hô hấp, người bị ngáy và ngưng thở trong lúc ngủ sẽ có một số biểu hiện như: ngáy to, có ngưng thở trong lúc ngủ (do bản thân người bệnh cảm nhận bị nghẹt thở trong lúc ngủ hoặc do người nhà chứng kiến) và buồn ngủ nhiều vào ban ngày. Hơn nữa, hiện nay vẫn chưa rõ nguyên nhân gây ra bệnh ngáy và ngưng thở trong lúc ngủ, nhưng yếu tố nguy cơ góp phần gây ra bệnh là do béo phì, mập vùng cổ (vòng cổ to, cổ bạnh) hay bất thường của cấu trúc vùng mặt ( cằm lẹm, phì đại amiđan, eo họng bị hẹp…). Ngoài ra, những người có thể trạng béo phì thì nguy cơ mắc bệnh ngáy và ngưng thở trong lúc ngủ có thể tăng gấp 3 lần so với bình thường. Đặc biệt, người có thói quen sử dụng thuốc lá, rượu bia, chất gây nghiện… cũng có nguy cơ cao mắc bệnh lý này.
Các khảo sát và thống kê trên thế giới cho thấy, tỷ lệ mắc chứng ngưng thở trong lúc ngủ do tắc nghẽn ở người trưởng thành trung bình khoảng từ 9%-38%. Đáng lo ngại, có đến 80% bệnh nhân này chưa được chẩn đoán nên không được điều trị và để lại nhiều gánh nặng nặng nề về bệnh tật, thậm chí có thể dẫn đến tử vong.
Sống lành mạnh để ngăn bệnh tật
Bệnh ngáy và ngưng thở trong lúc ngủ trên thực tế dễ bị chẩn đoán nhầm lẫn với các bệnh khác. Người trưởng thành khi bị mắc bệnh này có chất lượng giấc ngủ kém, ban ngày hay buồn ngủ, nên thường bị chẩn đoán nhầm lẫn với bệnh rối loạn giấc ngủ. Đồng thời, bệnh có thể dễ gây nhầm lẫn với tăng động giảm chú ý ở trẻ em. Vì trẻ em mắc bệnh này thường có chất lượng giấc ngủ kém, ban ngày trẻ thường cảm thấy bứt rứt, khó tập trung.
Theo nhận định của các chuyên gia y tế, ngáy và ngưng thở trong lúc ngủ là bệnh diễn tiến âm thầm và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe. Nếu không được điều trị sớm, bệnh này sẽ là nguyên nhân gây ra các bệnh khác như: tăng huyết áp, đái tháo đường, nhồi máu cơ tim, suy giảm trí nhớ ở tuổi già, thậm chí dẫn đến đột quỵ. Ngoài ra, khi mắc bệnh này, người bệnh hay buồn ngủ vào ban ngày, gây mất tập trung tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến tai nạn lao động, tai nạn giao thông.
Để tránh những biến chứng nguy hiểm trên, BS-CKII Ngô Thế Hoàng, Trưởng khoa Hô hấp, Bệnh viện Thống Nhất (TPHCM), khuyến cáo, người dân cần chủ động phòng tránh bệnh ngáy và ngưng thở trong lúc ngủ.
Quan trọng nhất là việc thay đổi lối sống, sinh hoạt lành mạnh như: hạn chế thấp nhất tình trạng béo phì bằng chế độ ăn hợp lý và kết hợp tập luyện thể dục thể thao. Đồng thời, cần hạn chế sử dụng rượu bia, chất kích thích có hại cho sức khỏe. Ngoài ra, thói quen há miệng để thở khi ngủ cũng cần được khắc phục. Bởi, khi bị các bệnh vùng mũi lâu ngày sẽ dẫn đến nguy cơ bị ngáy và ngưng thở trong lúc ngủ. Vì vậy, nếu gặp các bệnh về mũi cần điều trị dứt điểm để tránh há miệng khi ngủ. “Chúng ta phải thay đổi để có lối sống lành mạnh. Trường hợp nếu bản thân thấy mình có đầy đủ những dấu hiệu nghi ngờ mắc bệnh này thì cần chủ động đến thăm khám tại các cơ sở y tế chuyên môn, tránh tâm lý e ngại, chủ quan dẫn đến những biến chứng nặng nề”, BS Ngô Thế Hoàng chia sẻ.
Các dấu hiệu nhận biết ngưng thở khi ngủ
Ngưng thở khi ngủ có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm như tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim, thậm chí đột quỵ, đột tử, vậy đâu là dấu hiệu nhận biết?
Theo TS.BS Phan Thanh Thủy, Trung tâm Hô hấp, Bệnh viện Bạch Mai, hội chứng ngưng thở khi ngủ được phân loại thành 3 nhóm: ngưng thở tắc nghẽn, ngưng thở trung ương và ngưng thở hỗn hợp.
Trong đó, hội chứng ngưng thở tắc nghẽn chiếm tỷ lệ chủ yếu, thường gặp ở nam giới, hút thuốc lá, thể trạng thừa cân, béo phì, cổ ngắn, hàm nhỏ, hoặc tiền sử gia đình có người ngủ ngáy, ngưng thở khi ngủ.
Các dấu hiệu gợi ý để nhận biết mắc ngưng thở gồm: Ngáy ngủ, ai đó phàn nàn về buồn ngủ ban ngày, mệt mỏi vào buổi sáng hoặc thậm chí mất ngủ. Người thức dậy trong đêm bởi các cơn ngưng thở, thở hổn hển hoặc cảm giác ngạt thở. Người ngủ cùng hoặc những người khác có thể ghi nhận người đó khi ngủ có ngáy thường xuyên, ngưng thở hoặc cả hai.
Người được chẩn đoán tăng huyết áp, rối loạn tâm trạng, rối loạn nhận thức, bệnh mạch vành, tai biến mạch não, suy tim sung huyết, rung nhĩ hoặc tiểu đường type 2 là nhóm cần tầm soát hội chứng ngưng thở khi ngủ nếu có ít nhất một trong ba triệu chứng ngủ ngáy, buồn ngủ ban ngày quá mức hoặc cơn ngưng thở được chứng kiến.
Để chẩn đoán chính xác, người bệnh cần được thăm khám bởi các bác sĩ chuyên khoa và được đo đa ký hô hấp hoặc đa ký giấc ngủ để chẩn đoán.
Ngưng thở khi ngủ có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm. (Ảnh minh họa)
Theo bác sĩ, ngưng thở khi ngủ là bệnh lý gây ra nhiều hậu quả và biến chứng, thậm chí các bệnh lý nguy hiểm. Đầu tiên, do các phân mảnh giấc ngủ, người bệnh thường có biểu hiện buồn ngủ ban ngày quá mức dẫn đến gia tăng các tai nạn giao thông và tai nạn lao động. Nghiêm trọng hơn, tình trạng giảm chất lượng giấc ngủ do bệnh này cũng có thể gây ra các vấn đề về sức khỏe tâm thần.
Người bệnh có thể gặp tình trạng mệt mỏi, khó tập trung, lo âu, trầm cảm. Những vấn đề này có thể ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và hiệu suất làm việc của người bệnh, dễ trở nên cáu gắt và dễ bị kích động trong các tình huống không mong muốn. Tình trạng này có thể ảnh hưởng đến quan hệ xã hội và gia đình của người bệnh.
Hội chứng này còn có thể dẫn đến các bệnh lý rối loạn chuyển hóa như tiểu đường, rối loạn lipid máu, các bệnh lý thần kinh như Alzheimer. Đặc biệt, ngưng thở khi ngủ cũng có thể dẫn đến tình trạng tăng nguy cơ bệnh tim mạch như tăng huyết áp kháng trị, rối loạn nhịp tim, nhồi máu cơ tim, đột quỵ.
Ngưng thở khi ngủ có thể gặp ở 35% các bệnh nhân tăng huyết áp, 50% ở những bệnh nhân có rung nhĩ, 50% bệnh nhân suy tim và lên tới 80% ở những bệnh nhân tăng huyết áp kháng trị. Một phân tích tổng hợp trên các bệnh nhân đột quỵ ở châu Á cho thấy có đến 74% bệnh nhân đột quỵ có ngưng thở khi ngủ.
Một trong các biến chứng nguy hiểm nhất của hội chứng ngưng thở khi ngủ là đột tử trong đêm do độ bão hòa oxy máu giảm thấp và rối loạn nhịp tim, nhồi máu cơ tim cấp.
Tùy vào triệu chứng của người bệnh và mức độ nặng của ngưng thở khi ngủ mà bác sĩ quyết định lựa chọn các phương pháp điều trị phù hợp.
Các biện pháp chính để điều trị hội chứng ngưng thở khi ngủ bao gồm giảm cân, điều chỉnh chế độ dinh dưỡng hợp lý và tập luyện thể dục duy trì cân nặng lý tưởng với những trường hợp thừa cân, béo phì, điều trị bằng phẫu thuật với những trường hợp có bất thường đường hô hấp trên như: amydal quá phát, hàm nhỏ, tụt sau.
Người bệnh cũng có thể được chỉ định đeo dụng cụ đẩy hàm dưới ra trước, thở máy thông khí áp lực dương, kích thích dây thần kinh XII.
Đái dầm ở trẻ có cần điều trị? Đái dầm là bệnh tiểu tiện không tự chủ, hay gặp ở trẻ em 5 - 6 tuổi, xảy ra thường xuyên vào ban đêm hoặc lúc ngủ trưa. Nhiều cha mẹ khi thấy trẻ đái dầm thường băn khoăn, lo lắng liệu con mình có bị ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển không? Đái dầm là hiện tượng không...