Ngăn biến chứng ‘mù mắt’ do đái tháo đường
Để hạn chế các biến chứng ở tim, mạch máu, mắt,… do bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) cần phải kiểm soát đường huyết thật tốt, ngoài ra cần tập thể lực thường xuyên.
Người đái tháo đường cần tập thể lực để tập tăng sức bền, có tác dụng tăng cường hoạt động tim mạch và hô hấp, cải thiện chức năng tim phổi và huyết áp, giảm đường huyết, mỡ máu và giảm trầm cảm.
Tập thể lực làm tăng sức bền có thể theo cách: đi bộ, chạy bộ, khiêu vũ… Kiểu tập này cũng phù hợp cho những bệnh nhân bị biến chứng thần kinh ngoại biên, bệnh lý xương khớp.
Người ĐTĐ nên tập mỗi ngày ít nhất 30 phút, trên 5 ngày mỗi tuần. Nếu không có thời gian, có thể chia nhỏ tập nhiều buổi cũng hiệu quả, nhưng tối thiểu 10 phút/buổi, cường độ trung bình như bơi lội, đạp xe, đi bộ nhanh, khiêu vũ, tennis đôi, bóng chuyền… Nặng như leo dốc, thang bộ, đạp xe nhanh lên dốc, tennis đơn…
Việc tập luyện đều đặn giúp tăng số lượng và khối lượng tế bào cơ, tăng sức mạnh cho cơ, tăng canxi cho xương, giúp ổn định đường huyết, giảm mỡ máu, tăng dự trữ glucogen trong cơ. Có thể dùng tạ, nâng vật nặng có sẵn, kéo băng thun, tập máy… Tạ quá nhẹ không có tác dụng, tạ quá nặng làm tăng biến chứng đáy mắt và tim mạch. Nên tăng dần khối lượng tạ tập, nâng 8 – 10 lần rồi nghỉ, sau đó lặp lại 3 lần.
Video đang HOT
Tập giãn cơ, giúp cơ thể dẻo dai, giảm nguy cơ té ngã, làm tăng biên độ hoạt động khớp, hạn chế cứng khớp, thường là cách khởi động và thư giãn sau tập, ngừa đau cơ sau tập. Các chuyên gia về tập luyện sẽ hướng dẫn bài tập giãn cơ thích hợp cho từng bệnh nhân. Vận động mọi lúc, mọi nơi, giúp cơ thể tiêu hao bớt năng lượng dư thừa.
Khi tập luyện, nên phối hợp các kiểu tập khác nhau. Tập nặng tăng dần, tập đều đặn và thường xuyên. Thời điểm tập tùy thời gian làm việc trong ngày, không tập ngay sau bữa ăn chính, không tập quá xa bữa vì nguy cơ hạ đường huyết, tránh đỉnh tác dụng của insulin nếu đang dùng insulin chích, nếu tập ngoài trời nên tránh thời điểm quá nóng hoặc quá lạnh.
Trước khi tập chính nên có giai đoạn khởi động 20 – 30 phút (làm nóng), tập các động tác nhẹ hay tập giãn cơ tại chỗ. Sau buổi tập cần có giai đoạn thư giãn (làm nguội) 5 – 10 phút, chủ yếu là tập các động tác nhẹ hay tập giãn cơ tại chỗ.
Không nên tập khi đường huyết> 250mg/dl và xêtôn niệu dương tính hoặc đường huyết 170mmHg hay tụt huyết áp, đang bị sốt, nhiễm trùng cấp.
Chú ý khi tập là không tập đi trên nền đá cứng, chọn giầy mềm, không trơn trượt, luôn kiểm tra bàn chân sau mỗi buổi tập. Nên uống nhiều nước trước và sau khi tập, mang theo đường, kẹo hay thức ăn ngừa hạ đường huyết.
Khi tập, để ý các triệu chứng: Hạ đường huyết, đau ngực, choáng váng, nhức đầu, đau hay chấn thương xương khớp. Ngưng tập ngay nếu thấy xuất hiện các dấu hiệu trên.
Theo VNE
Để phát hiện bệnh đái tháo đường
Biểu hiện điển hình của bệnh đái tháo đường là uống nhiều, ăn nhiều nhưng lại sút cân...
Ở người bệnh đái tháo đường không được điều trị kịp thời hoặc điều trị không đúng cách, sẽ dẫn tới hàng loạt biến chứng nguy hiểm như bệnh tim mạch, bệnh thận. bệnh võng mạc và hệ thống hệ thần kinh... Vậy làm thế nào để sớm phát hiện ra căn bệnh quái ác này? Như ta đã biết, nguyên nhân chủ yếu gây nên bệnh đái tháo đường (còn gọi là bệnh tiểu đường) là do có thể sản xuất không đủ insulin, ảnh hưởng tới sự chuyển hóa bình thường của đường trong máu (đường máu), làm cho mức độ đường màu tăng lên, nước tiểu bài tiết ra cũng chứa đường (đường nước tiểu).
Bởi vậy, biểu hiện điển hình của bệnh đái tháo đường là uống nhiều, ăn nhiều và sút cân (thể trọng giảm), tức cái gọi là chứng "3 nhiều 1 sút". Nhưng sự thực chứng minh là có tới 1/3 tổng số người bệnh không xuất hiện các triệu chứng kể trên, thuộc người đái tháo đường không mang theo triệu chứng. Và bởi suốt thời gian dài bệnh nhân không hề biết mình đã mắc bệnh này, nên phần lớn đều xảy ra những biến chứng nghiêm trọng (như bệnh đục thủy tinh thể, thị lực giảm sút, viêm thần kinh, chức năng thận suy giảm, đau quặn tim, nhồi máu cơ tim, xuất huyết não, tắc mạch máu não...), khi chẩn đoán chữa trị các bệnh thứ phát này mới phát hiện ra mắc bệnh đái tháo đường, và tới lúc này thì đã quá muộn, chữa trị rất khó khăn, tiên lượng bệnh tật cũng kém!.
Biểu hiện điển hình của bệnh đái tháo đường là uống nhiều, ăn nhiều và sút cân
Kiểm tra hàm lượng đường trong nước tiểu là bước đầu tiên trong phát hiện bệnh đái tháo đường. Tuy dương tính với đường trong nước tiểu chưa đủ để kết luận mắc bệnh đái tháo đường, nhưng tuyệt đại đa số đường chứa trong nước tiểu đều là đường gluco (glucose; grape sugar; dextrse). Chỉ có rất ít người bệnh trong trường hợp thật đặc biệt thì trong nước tiểu mới xuất hiện các loại đường khác ngoài đường glucô. Bởi vậy bình thường vẫn có thể thông qua việc kiểm tra lượng đường trong nước tiểu để phát hiện bệnh đái tháo đường. Trong nước tiểu của người bình thường không có đường glucô, chỉ khi hàm lượng đường trong máu (đường máu) tăng cao, vượt quá ngưỡng đường bình thường thì trong máu mới xuất hiện đường glucô.
Với người bệnh đái tháo đường mà chức năng thận vẫn ở trạng thái bình thường, thì hàm lượng đường trong nước tiểu của người bệnh ít nhiều vẫn cân bằng với nồng độ đường trong máu. Bởi vậy, lúc này hàm lượng đường trong nước tiểu có thể phản ánh mức độ đường máu. Nhưng khi chức năng của thận bị tổn thương ở mức độ nhất định nào đó, thận không lọc được lượng đường thừa, cho dù đường máu tăng cao thì đường trong nước tiểu cũng không nhiều, thậm chí còn biểu hiện âm tính, lúc này chỉ có cách tiến hành xác định đường máu mới có thể giúp được chuẩn đoán.
Qua đó có thể thấy, có khi chỉ dựa vào việc kiểm tra lượng đường trong máu mới có thể chẩn đoán chính xác, kiểm đo đường máu là căn cứ quan trọng chẩn đoán bệnh đái tháo đường (bao gồm cả xác định lượng đường trong máu vào lúc hai giờ đồng hồ sau bữa ăn).
Trị số đường máu lúc bụng rỗng ở người bình thường là 4,4 - 6,7mmol/l (80-120mg/dl), nếu qua nhiều lần kiểm tra kết quả vẫn vượt 7,8mmol/l (140mg/dl) mà không tìm ra lệnh gì thì có thể chẩn đoán ra bệnh đái tháo đường, nếu cộng với kết quả kiểm tra đường máu lúc hai giờ đồng hồ sau bữa ăn đạt tới 11,2mmol/l (200mg/dl) trở lên, đường nước tiểu hơi có phần tương ứng dương tính (positive reaction) thì kết luận bệnh đái tháo đường có thể được đẳng định. Nếu đường máu của bệnh nhân khi bụng rỗng là 7,8mmol (140mg/dl) trở xuống, mà lâm sàng vẫn nghi ngờ là bệnh đái tháo đường thì cần phải cho bệnh nhân qua lần kiểm tra đặc biệt, gọi là thí nghiệm lượng đường trơ đường glucô (tức xác định lượng đường có thể chịu đựng được).
Phương pháp thường dùng là: Dặn người bệnh sau 7 giờ tối hôm trước ngày làm thí nghiệm nhịn ăn, sáng sớm hôm sau lấy mẫu máu tĩnh mạch để kiểm đo lượng đường máu lúc bụng rỗng, có thể theo phương án của WHO, sau đó cho người bệnh uống 300ml nước có pha 75g đường (glucose), hai giờ sau khi uống lấy mẫu máu để kiểm đo lượng đường máu, nếu lượng đường máu lúc bụng rỗng vượt quá 7,8mmol/l (140mg/dl) hoặc lượng đường máu lúc hai giờ đồng hồ sau bữa ăn vượt quá 11,2mmol/l (200g/dl) thì có thể chẩn đoán là đã mắc bệnh đái tháo đường. Nhưng với người thông qua kiểm đo đường nước tiểu, đường máu đã xác định mắc bệnh đái tháo đường rồi thì không cần làm thí nghiệm đặc biệt.
Theo VNE
Sữa chua kéo giảm nguy cơ đái tháo đường type 2 Hội Nghiên cứu bệnh đái tháo đường châu Âu cho thấy việc dùng nhiều sữa chua có thể làm giảm đáng kể nguy cơ đái tháo đường type 2. Nghiên cứu của TS Nita Forouhi tại ĐH Cambridge (Anh) và cộng sự vừa công bố trên tạp chí Diabetologia của Hội Nghiên cứu bệnh đái tháo đường châu Âu cho thấy việc dùng...