Lý do văn mẫu vẫn song hành cùng Chương trình giáo dục phổ thông mới
Cho đến nay, văn mẫu đã là vấn đề được bàn tới nhiều nhất trong cải cách giáo dục.
Nhiều cách khắc phục nhưng văn mẫu vẫn tồn tại. Sách văn mẫu vẫn được bán tràn lan ở các nhà sách và chào bán trên mạng xã hội.
Khi bước vào năm học 2022-2023, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành 2 công văn đề cập đến việc giảng dạy, kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn. Tuy nhiên, mặc dù có nhiều cải tiến nhằm loại bỏ việc dạy và hoc theo văn mẫu, nhưng về cơ bản, dạy Ngữ văn vẫn như trước, gần như khó loại trừ văn mẫu trong các nhà trường với rất nhiều lý do khác nhau.
Hiện nay, việc giao chỉ tiêu học sinh giỏi cho các tổ chuyên môn trong trường học gắn với nhiều phong trào thi đua. Kiểm tra, thi cử vẫn còn nặng bệnh thành tích. Tình trạng dạy thêm, học thêm vẫn diễn ra thì văn mẫu vẫn hiển nhiên tồn tại trong khi chưa có đổi mới trong dạy và học môn này.
Những chỉ đạo của Bộ về đổi mới giảng dạy, đổi mới kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn kể từ năm học 2022-2023
Để chuẩn bị cho năm học 2022-2023, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hướng dẫn đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn ở trường phổ thông bằng Công văn 3175/BGDĐT-GDTrH vào ngày 21/7/2022.
Những điểm mới trong việc kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn ở năm học 2022-2023
Công văn này đã hướng dẫn việc đổi mới cách đánh giá học sinh trong môn Ngữ văn như sau: “Trong đánh giá kết quả học tập cuối học kì, cuối năm học, cuối cấp học, tránh dùng lại các văn bản đã học trong sách giáo khoa làm ngữ liệu xây dựng các đề kiểm tra đọc hiểu và viết để đánh giá chính xác năng lực học sinh, khắc phục tình trạng học sinh chỉ học thuộc bài hoặc sao chép nội dung tài liệu có sẵn”.
Như vậy, theo hướng dẫn của Công văn 3175/BGDĐT-GDTrH thì việc đánh giá “cuối học kì, cuối năm học, cuối cấp học” đối với môn Ngữ văn “tránh” (không được lấy) những văn bản đã học trong sách giáo khoa để làm ngữ liệu cho phần “đọc hiểu” và phần “viết”. Có nghĩa đề Ngữ văn sẽ lấy ngữ liệu hoàn toàn ngoài ngữ liệu ở sách giáo khoa hiện nay. Vì đề kiểm tra, đề thi Ngữ văn hiện nay chỉ có cấu trúc 2 phần là đọc hiểu và viết.
Tuy nhiên, sau công văn 3175/BGDĐT-GDTrH, Bộ tiếp tục ban hành công văn 4020/BGDĐT-GDTrH vào ngày 22/8/2022 đã có điều chỉnh như sau: “Đối với môn Ngữ văn, thực hiện kiểm tra, đánh giá theo công văn số 3175/BGDĐT-GDTrH đối với khối lớp 6, lớp 7, lớp 10; khuyến khích các nhà trường vận dụng kiểm tra, đánh giá theo công văn này đối với khối lớp 8, 9, 11 và lớp 12″.
Điều này cũng đồng nghĩa, việc thực hiện đổi đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn ở trường phổ thông theo công văn 3175/BGDĐT-GDTrH chỉ bắt buộc ở lớp 6, lớp 7 và lớp 10. Các lớp còn lại đang giảng dạy chương trình 2006 thì Bộ chỉ “khuyến khích” thực hiện theo công văn 3175/BGDĐT-GDTrH mà thôi.
Việc chỉ dừng lại ở lớp 6, lớp 7 và lớp 10 cũng đồng nghĩa là công văn số 3175/BGDĐT-GDTrH chỉ thực hiện với chương trình giáo dục phổ thông 2018, còn chương trình hiện hành thì không bắt buộc. Vì thế, những lớp đang thực hiện chương trình hiện hành về cơ bản vẫn giữ ổn định như những năm qua.
Video đang HOT
Có lẽ, việc triệt tiêu văn mẫu rất được mong chờ, nhưng với tình hình thực tế hiện nay, chúng ta thấy văn mẫu vẫn tiếp tục tồn tại – cho dù các trường thực hiện nghiêm túc theo hướng dẫn của Công văn 3175/BGDĐT-GDTrH cũng rất khó có thể có những thay đổi trong những năm tới đây.
Những lý do văn mẫu vẫn song hành cùng chương trình 2018
Nhiều thầy cô giáo dạy Ngữ văn than rằng việc chấm điểm Ngữ văn của học trò bây giờ mất hứng thú. Phần lớn là “thầy chấm văn thầy” bởi các bài văn của học trò cứ na ná như nhau. Thực ra, không chỉ môn Ngữ văn mà môn học nào bây giờ cũng đều có bài mẫu. Mẫu kế hoạch bài dạy (giáo án), mẫu bài kiểm tra, bài thực hành…đều được các tác giả sách giáo khoa biên soạn khá đầy đủ và có thể được chào bán qua đường nội bộ, bán ở các nhà sách, bán trên mạng xã hội nên giáo viên mua khá dễ dàng.
Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng việc kiểm tra môn Ngữ văn không lấy ngữ liệu trong sách giáo khoa để triệt tiêu văn mẫu. Nhưng lấy ngữ liệu ở một cuốn văn mẫu, lấy ở một kênh khác và nhiều người cùng lấy thì đó cũng là văn mẫu. Một khi thầy cô mua được, tải trên mạng internet được thì học trò cũng có thể làm được, thậm chí các em làm tốt hơn thầy cô.
Bởi vậy, có thể thấy văn mẫu vẫn tồn tại vì những guyên nhân sau:
Thứ nhất: Đội ngũ tác giả viết văn mẫu hiện nay rất đông đảo. Họ có thể là tác giả sách giáo khoa; có thể là các nhà giáo đang giảng ở các nhà trường phổ thông. Họ bán sách, họ bán file word trên mạng xã hội. Giáo viên chỉ cần bỏ tiền ra là có đề kiểm tra, đề thi. Thậm chí, dạng đề kiểm tra trôi nổi hiện nay trên mạng internet có rất nhiều.
Giáo viên thì ngoài việc giảng dạy theo định mức và kiêm nhiệm rất nhiều công việc không tên khác, cùng với việc ra đề kiểm tra Ngữ văn hiện nay dài dằng dặc đến gần chục trang với việc liệt kê đơn vị kiến thức, liệt kê ma trận, bảng đặc tả, đề, đáp án…khiến cho nhiều giáo viên mất rất nhiều công sức, thời gian. Có nhiều giáo viên chưa tự tin để ra đề vì việc chia tỉ lệ thông hiểu, nhận biết, vận dụng thấp, vận dụng cao rất phức tạp.
Vì thế, họ chọn cách mua, xin, tải trên mạng internet rồi đem nộp cho nhà trường. Người cẩn thận còn chỉnh sửa, đầu tư thêm, nhiều người họ chỉ thay tên, đổi họ là thành đề kiểm tra của mình. Chính vì việc bảo mật đề nên về cơ bản các giáo viên ra đề nộp cho phó hiệu trưởng chuyên môn, sau đó tổ trưởng duyệt đề. Nhiều tổ trưởng biết là đề đó “trôi nổi” vì cỡ chữ, màu mực, kiểu chữ khác nhau nhưng vì cả nể, vì cận thời gian nên rồi họ cũng phải đành lòng cho qua.
Thứ hai: Các trường đều giao chỉ tiêu cho giáo viên từ đầu năm học theo phương châm “năm sau phải cao hơn hoặc bằng với tỉ lệ học sinh giỏi năm trước” nên giáo viên họ phải tìm cách cho học trò có những điểm số đẹp. Gần đến ngày kiểm tra, giáo viên ôn rất sát đề kiểm tra, thậm chí là ôn trực tiếp trên đề kiểm tra, bật mí đề kiểm tra cho học trò chuẩn bị trước.
Đối với các đề thi tuyển sinh 10, thi tốt nghiệp trung học phổ thông thì học sinh ôn đi, ôn lại các dạng đề ở trường, ở các lớp học thêm nên sự sáng tạo trong các bài văn không nhiều. Chỉ có những em thực sự yêu thích và giỏi Ngữ văn mới có những khác biệt trong bài làm của mình.
Thứ ba: Tình trạng dạy thêm, học thêm hiện nay khá phổ biến nên giáo viên dạy thêm sẽ có nhiệm vụ giải đề, làm sẵn văn mẫu cho học trò để các em “tái hiện” lại trong bài kiểm tra của mình. Tình trạng học sinh biết trước đề khi học thêm hiện nay không phải là hiếm. Thầy cô dạy thêm cũng muốn học trò học thêm với mình sẽ được điểm cao nhằm nâng “uy tín” cho mình nên họ cũng sẵn sàng “giúp” học trò những gì có thể.
Vì thế, tình trạng học sinh “trúng tủ” là điều dễ gặp nhưng vì lợi ích cả thầy và trò mà mọi thứ vẫn diễn ra êm đẹp.
Thứ tư: Một bộ phận lớn học sinh hiện nay không đọc sách, không yêu thích môn học nên các em cũng học chiếu lệ và lệ thuộc rất nhiều vào thầy cô giáo. Những bài văn hay, sáng tạo hiện nay rất hiếm.
Thứ năm: Việc môn Văn vẫn dùng đáp án để chấm khiến cho giáo viên dạy và học trò không dám đi lệch những định hướng của hội đồng bộ môn. Vì thế, giáo viên phải định hướng học sinh đi theo lối mòn và các em phải đi trên con đường mà thầy cô đã định hướng – nếu muốn được điểm cao.
Với rất nhiều những ràng buộc như thế nên việc triệt tiêu văn mẫu như hướng dẫn của Công văn 3175/BGDĐT-GDTrH cũng rất khó mang lại những hiệu quả nhất định. Thực ra, văn mẫu đã tồn tại từ hàng chục năm nay, phần lớn những chuyên gia viết chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn hiện nay là những “cây đa, cây đề” viết văn mẫu nên rất khó loại bỏ văn mẫu khỏi nhà trường phổ thông hiện nay.
Đổi mới kiểm tra môn Văn: Giáo viên gặp khó trong khâu tìm ngữ liệu chính thống
Cô Huyền cho hay, mỗi một bài làm văn là những ý tưởng khác nhau, vô cùng sáng tạo nên thầy cô cũng hứng thú hơn khi chấm bài.
Năm nay, chương trình giáo dục phổ thông mới lần đầu tiên triển khai đối với lớp 10. Trong đó, môn Ngữ văn có sự thay đổi rõ rệt nhất trong kiểm tra, đánh giá. Theo Công văn số 3175/BGDĐT-GDTrH của Bộ Giáo dục và Đào tạo gửi các Sở Giáo dục và Đào tạo về hướng dẫn đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn ở trường phổ thông, trong đó có nhấn mạnh việc tránh dùng các văn bản trong sách giáo khoa làm ngữ liệu xây dựng đề cuối kỳ, cuối năm học, cuối cấp học.
Sau gần một học kỳ triển khai, trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, cô giáo Dương Bích Huyền, Tổ trưởng Tổ Ngữ văn - Giáo dục công dân của Trường Trung học phổ thông Lịch Hội Thượng (Sóc Trăng) đã chia sẻ một số thuận lợi, khó khăn gặp phải.
Theo cô Huyền, chương trình Ngữ văn 10 có nội dung rất hay, phong phú, gần gũi đối với đời sống thường ngày. Bài học được tổ chức theo chủ đề, hệ thống câu hỏi rõ ràng và cụ thể nên khá thuận tiện trong quá trình dạy và học.
Đặc biệt, chương trình phát huy được năng lực chung và năng lực đặc thù của học sinh, giúp các em tư duy sáng tạo trong quá trình tiếp nhận và rèn luyện kĩ năng.
"Lấy ngữ liệu ngoài sách giáo khoa trong các bài kiểm tra đánh giá là một sự đổi mới mạnh mẽ nhất, "triệt tiêu" văn mẫu và cách dạy đọc - chép vốn được áp dụng nhiều năm nay. Học sinh không cần phải học thuộc lòng nội dung giáo viên cho ghi trên lớp để đưa vào bài làm. Từ đó tạo điều kiện cho các em có cơ hội làm giàu kiến thức của bản thân thông qua việc được tự mình đọc - hiểu, cảm nhận về tác phẩm khác cùng thể loại đã học.
Bên cạnh đó, giáo viên cũng có thể đánh giá đúng năng lực làm bài của học sinh. Mỗi một bài làm là những ý tưởng khác nhau, vô cùng sáng tạo nên thầy cô cũng hứng thú hơn khi chấm bài", cô Huyền nói.
Vì là năm đầu triển khai với lớp 10 nên ngoài thuận lợi, cô Huyền cũng ghi nhận một số vướng mắc, khó khăn đối với cả thầy và trò.
Cụ thể, về phía học sinh, chuyển từ chương trình cũ sang chương trình mới nên có em còn mơ hồ khi tiếp nhận văn bản, đọc văn bản và ghi chép bài học. Chưa kể, năng lực của từng đối tượng học sinh trong lớp khác nhau; giữa các lớp 10 khác nhau. Thậm chí, có những học sinh rụt rè, ít trao đổi, phát biểu,... gây khó khăn cho giáo viên trong khâu tổ chức các hoạt động học tập.
Mỗi tiết dạy, thầy cô sẽ giao nhiệm vụ, phiếu học tập về nhà cho các em học sinh tìm hiểu. Vì kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin của một số em còn yếu nên mất rất nhiều thời gian mới có thể hoàn thành, có những em không thể hoàn thành nhiệm vụ kịp tiến độ được giao.
Với những học sinh có học lực yếu, trung bình, vận dụng kĩ năng đã học vào việc xử lý yêu cầu của đề kiểm tra còn chưa nhanh nhạy, thực hiện các bước làm bài chưa đảm bảo theo quy trình đã học.
Ảnh minh họa: Ngọc Ánh
Còn về phía giáo viên, bài học dài, lượng kiến thức lớn nên các thầy cô mất nhiều thời gian cho việc thiết kế kế hoạch bài giảng, chuẩn bị phiếu học tập cho học sinh. Có những hoạt động cần phải tổ chức trong một thời lượng nhất định nên đa số giáo viên đều bị "cháy" giáo án, không thể thực hiện được hết các hoạt động như dự kiến trong giáo án.
Một trong các nội dung của chương trình Ngữ văn mới là có những buổi học chuyên đề. Thực tế, lượng kiến thức ở các chuyên đề rất mới, khối lượng nhiều, khá chuyên sâu. Việc học sinh học nhiều môn, phải thực hiện nhiều nhiệm vụ khi về nhà có thể sẽ dẫn tới tình trạng các em không đủ thời gian để tự nghiên cứu bài, hoàn thành yêu cầu ở từng chuyên đề.
Chia sẻ một số khó khăn khi ra đề kiểm tra, đánh giá, cô Huyền cho biết: "Giáo viên gặp khó trong khâu tìm ngữ liệu chính thống. Ngoài ra, để tạo sự công bằng cho học sinh và cũng để giáo viên đánh giá khách quan kết quả làm bài ở các lớp, các thầy cô đảm nhiệm dạy nhiều lớp 10 phải chọn nhiều ngữ liệu khác nhau, thiết kế bộ đề kiểm tra theo ma trận tương ứng với từng đối tượng học sinh các lớp".
Mới đây, Trường Trung học phổ thông Hội Lịch Thượng đã tiến hành cho học sinh lớp 10 thực hiện bài kiểm tra giữa kỳ môn Ngữ văn. Sau khi chấm điểm và tổng hợp, cô Huyền nhận xét: "Mặt bằng chung điểm Ngữ văn lớp 10 năm nay khá ổn định so với năm ngoái. Cụ thể, trong tổng số 324 học sinh, học sinh đạt điểm tốt là 21,6%; điểm khá chiếm 42,91%; điểm đạt chiếm 33,64%; điểm chưa đạt chiếm 1,85%.
Như vậy, đa số học sinh khối 10 đều có điểm kiểm tra giữa học kỳ 1 trên điểm trung bình. Tuy nhiên, tôi đánh giá, kĩ năng viết của các em vẫn chưa đảm bảo theo yêu cầu cũng như kỳ vọng", cô Huyền nói.
Để tạo sự thống nhất chung trong quá trình dạy học giữa các trường và các tổ chuyên môn, Tổ trưởng Tổ Ngữ văn - Giáo dục công dân của Trường Trung học phổ thông Lịch Hội Thượng cho rằng cần có nhóm giáo viên Ngữ văn của tỉnh để các thầy cô thuận tiện trong việc chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm.
Cùng đánh giá về việc triển khai môn Ngữ văn lớp 10, thầy Ngô Xuân Tiến, Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Nguyễn Thái Học (Gia Lai) cho rằng, so với những bỡ ngỡ ngày đầu giảng dạy, hiện nay chương trình đang dần đi đúng lộ trình, mục tiêu hướng tới.
Trước đó, giáo viên Ngữ văn của nhà trường đã được tập huấn nhiều, vì vậy, sau một thời gian thực hành giảng dạy, các thầy cô đang quen dần.
"Theo tôi, kiểm tra môn Ngữ văn lấy ngữ liệu ngoài sách giáo khoa là bước đổi mới tích cực. Như vậy, học sinh sẽ không bị bó buộc vào dàn bài trước đó thầy cô đã cho sẵn, tính sáng tạo của các em được phát huy tối đa", thầy Tiến nói.
Còn theo thầy Nguyễn Văn Trường, Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Huỳnh Thúc kháng (Gia Lai) nhận xét, chương trình Ngữ văn 10 hiện nay có khối lượng kiến thức nặng hơn so với chương trình cũ. Điều này cũng gây khó khăn cho học sinh và giáo viên trong việc tiếp thu kiến thức và giảng dạy.
Đặc biệt, thầy Trường cũng nhấn mạnh đến việc ra đề kiểm tra lấy ngữ liệu ngoài sách giáo khoa là khâu rất quan trọng. Muốn trích dẫn hay lấy ngữ liệu bên ngoài bắt buộc thầy cô phải lựa chọn những văn bản uy tín, đã được kiểm định, tránh vi phạm.
Lời gan ruột của giáo viên khi trực tiếp đứng lớp giảng dạy môn Ngữ văn Quá trình này hiện vẫn có rất nhiều bất cập và còn sự lúng túng ở cả thầy và trò. Nhiều vấn đề băn khoăn hiện vẫn chưa có hướng giải quyết thỏa đáng. Môn Ngữ văn thuộc Chương trình giáo dục phổ thông 2018 được xây dựng theo hướng mở, trong đó chú trọng tới phát triển phẩm chất và năng lực...