Luật hóa nguyên tắc suy đoán vô tội để giảm án oan
Nguyên tắc này mở lối ra cho những vụ án đi vào ngõ cụt, khi mà dù đã làm hết cách, cơ quan có thẩm quyền không trả lời được câu hỏi: Ai thực sự là tác giả của hành vi được gọi là tội phạm.
PGS – TS Nguyễn Ngọc Điện (Phó Hiệu trưởng ĐH Kinh tế – Luật TP HCM) nêu quan điểm về việc này trên Pháp luật TP HCM.
Ông cho biết, nguyên tắc suy đoán vô tội là sự thừa nhận chính thức của xã hội, thông qua các quy tắc pháp lý, về việc một người bị tình nghi phạm tội được coi là ngoại phạm chừng nào các bằng chứng rành rành chống lại người này chưa được cơ quan có thẩm quyền lôi ra ánh sáng. Nguyên tắc này không phải từ trên trời rơi xuống mà là thành quả của nền văn minh, là kết quả đạt được sau những cuộc đấu tranh nhọc nhằn đòi công lý cho những người bị kết tội nhầm, bị xử oan.
Tình nghi chưa chắc là tội phạm
Được hưởng sự suy đoán ấy, người bị tình nghi không cần phải dốc sức chứng minh rằng mình vô tội, thậm chí có quyền im lặng. Chính những người được xã hội giao chức năng phát hiện, nhận dạng tội phạm, đặc biệt là cơ quan điều tra và cơ quan công tố phải nỗ lực làm cho công luận, tòa án tin vào những cáo buộc của mình bằng cách trưng ra những chứng cứ buộc tội thuyết phục mà họ thu thập được.
Việc thiết lập nguyên tắc suy đoán vô tội có tác dụng kép: Thứ nhất, đó là lời cảnh báo thường xuyên đối với những người được xã hội giao chức năng gìn giữ, bảo đảm trật tự xã hội kèm theo quyền sử dụng công lực để thực hiện chức năng ấy. Họ phải thực hiện phận sự một cách mẫn cán, cẩn trọng, chặt chẽ và có trách nhiệm. Họ phải hiểu rằng nhiệm vụ của họ không chỉ để vạch mặt, chỉ tên tội phạm một cách chính xác mà còn tránh gây tai họa cho người hiền lương. Thứ hai, nó mở lối ra cho những vụ án đi vào ngõ cụt, khi mà dù đã làm hết cách, cơ quan có thẩm quyền không trả lời được câu hỏi: Ai thực sự là tác giả của hành vi được gọi là tội phạm?
Có thể trong phần lớn trường hợp, những người bị cơ quan chức năng đặt vào diện tình nghi cao rốt cuộc là người phạm tội đích thực. Nhưng không thể từ đó đánh đồng tất cả người bị tình nghi với tội phạm. Sự quy kết sớm và nghiệt ngã dễ tạo định kiến đối với người trong cuộc, đồng thời tạo điều kiện bộc phát tâm lý chủ quan, dẫn đến thái độ làm việc tùy tiện, tắc trách của người có thẩm quyền.
Video đang HOT
Trước hết, những người có trách nhiệm bảo đảm thực thi luật pháp phải nhận thức được tầm quan trọng của công việc, đặc biệt là tác động trực tiếp của nó đối với cuộc sống, sự nghiệp, danh dự, nhân phẩm và cả tính mạng của con người. Từ nhận thức đó, người ta dễ dàng nhận ra yêu cầu số một đối với công việc của những người này, đó là phải tôn trọng sự thật khách quan. Phải bắt cho đúng người, quy cho đúng tội.
Trong thực tiễn, ngoại trừ trường hợp phạm pháp quả tang, các vụ vi phạm pháp luật chỉ bị phanh phui sau khi đã xảy ra. Nói khác đi, có nhiều vụ phạm pháp mà sự thật về nó không bộc lộ một cách hiển nhiên, cần được dựng lại. Chính những người giữ các vị trí tương ứng với các giai đoạn trong quá trình tố tụng, chứ không phải ai khác, chịu trách nhiệm trong việc khôi phục toàn bộ bức tranh diễn biến thật của câu chuyện. Có được bức tranh hoàn hảo, không chỉ người có thẩm quyền mà toàn xã hội sẽ có điều kiện thẩm định, đánh giá bản chất của sự việc một cách đúng đắn, trên cơ sở đó có kết luận chính xác về việc một người có tội hay không có tội.
Giảm thiểu oan trong tố tụng
Song có những câu chuyện không thể được dựng lại do dấu vết, manh mối cơ bản không còn đầy đủ. Nghĩa là có những vụ vi phạm pháp luật bị bỏ lọt, tạm thời hoặc vĩnh viễn, bất chấp các nỗ lực của con người. Xã hội phải chấp nhận thực tế đó: Suy cho cùng cả việc phát hiện, cũng như việc bỏ sót các vụ vi phạm pháp luật, đều là những điều bình thường. Lý do là hệ thống quản lý, tư pháp, cũng như những người trong hệ thống đó, không phải là thần thánh, không hoàn hảo tuyệt đối về nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức. Đối với người giữ trọng trách trong hệ thống, việc cần làm mỗi khi xảy ra trục trặc là phải rà soát lại quy trình, xem chỗ nào, người nào là nguyên nhân. Sau đó họ phải có biện pháp chấn chỉnh, tránh để tái diễn những chuyện tương tự.
Anh Nguyễn Minh Sang bị tòa án cấp sơ thẩm phạt 9 tháng tù dù quá trình điều tra không chứng minh được anh phạm tội. Đến tháng 3, anh Sang được minh oan.
Điều quan trọng là khi cơ quan tố tụng không thu thập được chứng cứ buộc tội thì nghi can phải được chính thức suy đoán là vô tội. Đối với xã hội, đó phải được coi là sự vô tội hoàn hảo, chắc chắn, không nghi ngờ, không tì vết. Nó cho phép người thụ hưởng tiếp tục sống, làm việc, giao tiếp trong những điều kiện bình thường. Có thể với nguyên tắc suy đoán vô tội, nhà chức trách, xã hội buộc phải chứng kiến kẻ bị cho là thủ ác nhởn nhơ trước mắt mình mà không làm được gì. Tuy nhiên, nếu sự thất bại trong việc buộc tội một người có thể khiến một gia đình phải chịu mất mát không thể bù đắp thì việc kết tội oan cho một người có thể làm tan nát cả hai gia đình, chưa kể những hệ lụy xã hội tiêu cực kéo theo.
Được minh oan sau 9 tháng ngồi tù Theo hồ sơ buộc tội, tháng 8/2011, anh Nguyễn Minh Sang đến nhà ông nội ở huyện Châu Thành (Tiền Giang) hái dừa uống. Thấy ông nội chở chú ra khỏi nhà, anh Sang bước vào thì thấy trên bàn có điện thoại di động và một nhẫn vàng (tổng giá trị 2,3 triệu đồng) bèn lấy trộm. Trở về, nghe hàng xóm kể có anh Sang tới nhà, người chú đã bắt anh Sang chở đến công an xã giao nộp. Anh Sang bị khởi tố, bắt tạm giam về tội trộm cắp tài sản. Tháng 11/2011, TAND huyện Châu Thành xử sơ thẩm đã phạt anh Sang chín tháng tù. Anh Sang kháng cáo kêu oan. Tháng 5/2012, TAND tỉnh Tiền Giang xử phúc thẩm đã hủy án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại. Điều tra lại không có kết quả, tháng 11/2012, công an huyện đình chỉ vụ án với lý do hành vi phạm tội của anh Sang không còn nguy hiểm cho xã hội theo khoản 1 Điều 25 Bộ luật hình sự. VKSND Tối cao đồng tình đã yêu cầu VKSND tỉnh Tiền Giang kiểm tra, xem xét lại vụ việc theo hướng phải đình chỉ điều tra bị can theo điểm b khoản 2 Điều 164 Bộ luật Tố tụng hình sự (hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm). Gần một tháng sau, công an huyện đã ra quyết định “đính chính” lý do đình chỉ điều tra từ khoản 1 Điều 25 Bộ luật Hình sự sang điểm b khoản 2 Điều 164 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nhờ vậy anh Sang mới chính thức được minh oan.
Theo VNE
Cụ bà tự thiêu ở sảnh tòa án
Cạnh vạt tường đen xì vì khói là thi thể cụ bà 84 tuổi. Mũ bảo hiểm, giỏ đựng giấy tờ của một vụ án và thuốc uống trị bệnh tiểu đường của cụ vương tại hiện trường.
Khoảng 7h ngày 5/7, nhiều người đi đường và cán bộ TAND huyện Đông Hoà (tỉnh Phú Yên) hoảng hốt khi thấy một cụ bà tưới xăng tự thiêu tại sảnh tòa. Người xung quanh vội đến dập lửa nhưng không cứu được cụ.
Người chết được xác định là cụ Nguyễn Thị Bương, 84 tuổi, trú thôn Phước Lương, xã Hòa Xuân Tây, huyện Đông Hòa. Tại hiện trường có mũ bảo hiểm, một giỏ kẹp, giấy tờ và một số thuốc chữa bệnh tiểu đường của cụ.
Hiện trường vụ việc khi nhà chức trách đến khám nghiệm.
Ông Đoàn Dũng, Chánh án TAND huyện Đông Hòa, cho biết khi xảy ra sự việc, các cán bộ toà đang đọc báo và trao đổi công việc lúc đầu ngày, còn lực lượng bảo vệ làm công việc phía sau nên không biết chính xác cụ đến từ lúc nào. Khi thấy lửa bốc lên, cán bộ toà chạy ra thì thấy cụ Bương tự thiêu.
Vị chánh án cũng cho hay, 3 năm trước TAND huyện Đông Hòa giải quyết vụ ly hôn giữa con gái cụ Bương là Trần Thị Giàu (51 tuổi) với ông Nguyễn Văn Lập (53 tuổi, ngụ xã Hòa Xuân Tây). Bản án có hiệu lực tuyên buộc ông Lập phải trả cụ Bương 3 chỉ vàng mà trước đó đã mượn. Sau đó hồ sơ được chuyển qua Chi cục Thi hành án dân sự cùng cấp để thực thi bản án.
Trả lời báo Pháp luật TP HCM, ông Nguyễn Kim Đồng (Chi cục trưởng Thi hành án dân sự huyện Đông Hòa) cho biết, trước đây Chi cục đã kê biên một bộ ghế salon của ông Lập rồi giao cho cụ Bương, cấn trừ tương đương một chỉ vàng nên ông Lập còn nợ hai chỉ.
Tháng 9/2011, Chi cục đã trả đơn yêu cầu thi hành án cho cụ Bương do ông Lập không có điều kiện thi hành. "Đến nay, cụ Bương chưa có đơn yêu cầu thi hành án trở lại nên chúng tôi không biết ông Lập đang làm gì, ở đâu, có điều kiện thi hành án hay không", ông Đồng nói.
Gia đình cụ Bương khẳng định dù tuổi cao nhưng cụ vẫn minh mẫn, nhiều lần đề nghị cơ quan thi hành án buộc ông Lập trả nợ số vàng còn lại. Cụ Bương đòi vàng để giúp cho hai con ông Lập đang ở với mẹ trong hoàn cảnh hết sức bi đát. Trước đây, ông Lập đánh vợ đến tàn phế rồi bỏ trốn, sau đó đi tù. Từ ngày ly hôn, ông không cấp dưỡng nuôi hai con. Do di chứng những lần bị chồng bạo hành, con gái cụ Bương đau bệnh thường xuyên, không làm gì được để nuôi hai con.
"Ông Lập đang chuẩn bị lấy vợ mới, có công ăn việc làm, hoàn toàn có đầy đủ khả năng thi hành án", người nhà cụ Bương nói.
Theo VNE
Đề nghị án treo cho 2 nguyên CA Tiền Giang Các luật sư kiến nghị VKSND Tối cao xem xét đình chỉ vụ án hình sự, miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo. Điều tra viên Bùi Văn Nhứt (bìa phải) tại tòa. Trong 2 ngày 21 và 22/6, TAND tỉnh Tiền Giang đưa vụ án "Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ"...