Không vì giải quyết tình trạng thiếu giáo viên mà hạ bớt chất lượng đội ngũ
Năm học 2022-2023 đã bắt đầu được gần 1 tháng. Tuy nhiên, tình trạng thiếu giáo viên, nhất là giáo viên thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới vẫn đang là vấn đề nóng ở nhiều địa phương.
Tích cực bổ sung giáo viên để triển khai chương trình mới
Về vấn đề này, TS Vũ Minh Đức cho biết, trong nhiều năm qua, tình trạng thiếu giáo viên đã được Bộ GDĐT hết sức quan tâm, phối hợp với các bộ, ngành và các địa phương để giải quyết.
Đặc biệt, trong năm 2021, Bộ GDĐT đã phối hợp với Bộ Nội vụ đề xuất Chính phủ bổ sung biên chế giáo viên và đã được Bộ Chính trị đồng ý bổ sung thêm gần 66.000 biên chế giáo viên trong giai đoạn 2022- 2026. Trong đó, năm học 2022 – 2023 bổ sung 28.750 biên chế giáo viên mầm non, phổ thông.
Ngày 2/8/2022, Bộ GDĐT đã có Công văn số 3585/BGDĐT-NGCBQLGD đề nghị các địa phương khẩn trương tuyển dụng hết số biên chế giáo viên đã được giao trước đây và số biên chế được bổ sung theo quyết định của Bộ Chính trị.
Một tiết học môn Tiếng Anh của cô và trò Trường Tiểu học Trần Quốc Toản (Hà Nội).
TS Vũ Minh Đức đánh giá, nhiều địa phương đã tích cực thực hiện việc bổ sung đội ngũ giáo viên để triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Một số địa phương tăng cường phân cấp cho các cơ sở giáo dục trong việc tuyển dụng giáo viên, đảm bảo số lượng và cơ cấu hợp lý, có nhiều giải pháp khắc phục tình trạng thiếu giáo viên.
Tuy nhiên, ở một số địa phương, nhất là các địa phương thuộc vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn trong nguồn tuyển, đặc biệt là các môn học mới, môn học đặc thù như: Ngoại ngữ, Tin học, Nghệ thuật.
Lý giải nguyên nhân dẫn tới việc thiếu nguồn tuyển, TS Vũ Minh Đức cho biết, một bộ phận sinh viên tốt nghiệp các trường sư phạm chưa sẵn sàng đến công tác ở những vùng điều kiện kinh tế – xã hội còn nhiều khó khăn. Một số người được đào tạo về Tin học, tiếng Anh có thể dễ dàng tìm kiếm được các công việc có thu nhập cao hơn so với việc trở thành giáo viên. Việc tuyển sinh và năng lực đào tạo của một số trường sư phạm đối với các môn đặc thù, đòi hỏi có năng khiếu như Mỹ thuật, Âm nhạc còn hạn chế.
TS Vũ Minh Đức cũng cho hay, chính sách đãi ngộ đối với giáo viên là một động lực quan trọng để thu hút người giỏi vào học sư phạm và trở thành giáo viên. Bên cạnh đó, các chính sách địa phương như hỗ trợ về nhà công vụ, kinh phí, điều kiện làm việc… cũng là những điều kiện quan trọng giúp giáo viên yên tâm, gắn bó và cống hiến cho sự nghiệp giáo dục.
“Mặc dù tại thời điểm này, việc thiếu giáo viên đang còn khá gay gắt nhưng với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự vào cuộc của các bộ, ngành, địa phương, chắc chắn trong thời gian tới, việc này sẽ được giải quyết một cách cơ bản”, TS Vũ Minh Đức khẳng định.
Trả lời câu hỏi có nên hạ bớt các tiêu chí, tiêu chuẩn trong đào tạo tuyển dụng để giải quyết bài toán thiếu giáo viên, ông Đức cho hay, không nên đặt vấn đề hạ bớt tiêu chí, tiêu chuẩn trong đào tạo, tuyển dụng giáo viên vì theo tinh thần Nghị quyết 29-NQ/TW của Trung ương, giáo dục và đào tạo Việt Nam đang thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Video đang HOT
“Đội ngũ nhà giáo có vai trò quyết định đối với chất lượng giáo dục, vì vậy không thể vì việc giải quyết tình trạng thiếu giáo viên trước mắt mà hạ bớt chất lượng của đội ngũ giáo viên”, ông Đức nêu quan điểm.
Thực hiện chính sách tiền lương mới
Thiếu nguồn tuyển giáo viên chất lượng là một bài toán khó, nhưng không phải không có giải pháp. Để giải quyết bài toán, TS Vũ Đức Minh nhấn mạnh một số giải pháp trước mắt và lâu dài. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, việc giải quyết tình trạng thiếu giáo viên phải đồng bộ từ Trung ương tới địa phương, đồng bộ giữa các bộ, ngành liên quan; làm rõ trách nhiệm của các đơn vị, địa phương trong việc giải quyết tình trạng thiếu giáo viên.
Việc giải quyết tình trạng thiếu giáo viên vừa bảo đảm việc thực hiện tinh giản biên chế theo chủ trương của Đảng và Nhà nước vừa bảo đảm phương châm: Ở đâu có học sinh, ở đó phải có giáo viên; Ở đâu có học sinh, bảo đảm cơ hội tiếp cận bình đẳng giáo dục của tất cả trẻ em và học sinh.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật để nâng cao vị thế, thu nhập của nhà giáo.
Thực hiện chính sách tiền lương mới theo tinh thần Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế: “Lương của nhà giáo được ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và có thêm phụ cấp tùy theo tính chất công việc, theo vùng”; tạo sự thu hút và động lực cho đội ngũ nhà giáo yên tâm công tác.
Thứ ba, thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập có điều kiện thực hiện cơ chế tự chủ. Có cơ chế, chính sách để khuyến khích các cá nhân và doanh nghiệp thành lập các cơ sở giáo dục ngoài công lập, tham gia xã hội hóa giáo dục để giảm áp lực cho hệ thống giáo dục công lập.
Thứ tư, tiếp tục rà soát về số lượng và cơ cấu giáo viên ở tất cả các cấp học, môn học, xác định cụ thể số lượng giáo viên còn thiếu, đặc biệt là các địa phương thiếu nhiều do chính sách trước năm 2015 để có giải pháp bổ sung biên chế phù hợp; tập trung ưu tiên bổ sung biên chế cho giáo dục vùng khó khăn, nơi dân số tăng, các khu công nghiệp…; rà soát, sắp xếp, chuyển những trường phổ thông có quy mô nhỏ thành trường có nhiều cấp học.
Thứ năm, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên; nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo giáo viên, mở các ngành đào tạo phù hợp với các môn học theo Chương trình GDPT 2018; tăng cường đào tạo văn bằng thứ hai, đào tạo liên thông hoặc bồi dưỡng chuyển đổi môn học để bổ sung giáo viên cho những môn học còn thiếu, môn học đặc thù.
Bên cạnh đó, triển khai thực hiện tốt Nghị định 116/2020/NĐ-CP nhằm bảo đảm nguồn tuyển dụng giáo viên theo cơ cấu môn học và theo nhu cầu của địa phương.
Trong trường mẫu giáo, nếu trẻ xưng "tôi" với giáo viên liệu có dễ nghe ?
Không nên cứng nhắc trong xưng hô ở nhà trường, làm sao để trẻ không sợ sệt và nâng cao được chất lượng học tập mới là quan trọng nhất.
Dư luận vẫn chưa hết tranh cãi với bài đăng trên trang cá nhân của nhà nghiên cứu phê bình văn học Lại Nguyên Ân, khi ông bày tỏ quan điểm rằng, yêu cầu giáo viên và cán bộ giáo dục không gọi học sinh là "con".
Vị này cũng đồng thời yêu cầu Bộ Giáo dục và Đào tạo sớm thảo một quy chế về xưng hô trong nhà trường, yêu cầu giáo viên và học sinh, sinh viên cần thay đổi cách gọi.
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân cũng chỉ ra 3 điều thiết yếu trong quy chế trong đó có đề xuất đáng chú ý rằng, cấm giáo viên không gọi học trò là "con", "các con"; phải gọi là "trò", "các trò", "các em", "các bạn".
Đồng thời cho rằng, khuyến khích học trò các cấp, nhất là sinh viên đại học, xưng "tôi" trước giáo viên, ngay cả trong không gian trường học [1].
Cô Diên Thị An - Hiệu trưởng Trường mầm non Lục Dạ, Con Cuông, Nghệ An. Ảnh: T.D
Sau sự việc này, dư luận đã dấy lên nhiều ý kiến trái chiều, nhiều người cho rằng việc xưng hô giữa giáo viên và học sinh như thế nào thực ra cũng chỉ là một phương thức giao tiếp, không nên quá đặt nặng và cầu kỳ những tiểu tiết như vậy.
Điều quan trọng và cốt lõi ở các nhà trường là làm sao để có thể đạt được một môi trường giáo dục thân thiện, chất lượng giáo dục được nâng cao.
Chia sẻ về vấn đề này, cô Diên Thị An - Hiệu trưởng Trường mầm non Lục Dạ (Con Cuông, Nghệ An) cho biết: "Với các cấp học khác, có thể việc giáo viên và cán bộ trong trường dùng cách gọi học trò là "con" không phổ biến. Nhưng với bậc học mầm non, cách gọi học trò là "con" hầu như là đại trà và nhiều giáo viên trong các trường vẫn thường sử dụng cách gọi này.
Theo tôi, có thể là do từ bao lâu nay, cách xưng hô này đã tạo ra được cảm giác gần gũi, thân thiện giữa giáo viên và học sinh nhất. Điều này khiến cho trẻ mầm non thấy được cảm giác an toàn như khi các em đang ở bên cạnh mẹ của mình vậy.
Hơn nữa, nhiều khi nếu chúng ta áp dụng cách gọi học trò mẫu giáo bằng các từ ngữ khác thay vì cách gọi "con" như cũ, rất dễ tạo cho trẻ cảm giác xa lạ. Vì trên thực tế, với các trường mầm non, là nơi mà các em chập chững bước những bước đầu tiên đến trường. Khi rời xa vòng tay cha mẹ để ở trong môi trường mới và lạ lẫm, thì giáo viên gọi các em là "con" cũng phần nào giúp các em bớt đi sự sợ sệt.
Còn với các bậc học khác cao hơn, khi các học sinh đã hình thành tương đối hoàn chỉnh về mặt tâm sinh lý, hoàn toàn có thể cho giáo viên áp dụng cách gọi là "em" hoặc "các em". Nhưng dù sao, cũng nên dựa trên tình hình thực tế ở môi trường mà các em đang tiếp cận.
Tóm lại, cách giáo viên gọi học sinh như thế nào nên để ở trạng thái tự nhiên, linh hoạt và tùy cách ứng xử với học sinh của từng cấp học. Không nên đưa việc này vào khuôn khổ và quy định cứng rằng phải gọi như thế này hoặc phải gọi như thế kia.
Chẳng hạn, giờ ở cấp học mầm non, nếu chúng ta không cho giáo viên gọi học trò là "con" như cũ nữa mà gọi với tên gọi khác. Còn với học trò mẫu giáo, chúng ta yêu cầu các em gọi giáo viên của mình là "cô" nhưng xưng "tôi" thì liệu có hợp lý?".
Để làm rõ hơn về việc xưng hô trong nhà trường, cô An cũng cho biết rằng, tại trường mầm non Lục Dạ, từ trước cũng đã có một bộ quy tắc ứng xử. Theo vị Hiệu trưởng này, trong bộ quy tắc đó cũng đưa ra những quy tắc về cách xưng hô giữa giáo viên với học sinh nhưng đều dựa trên sự linh hoạt chứ không cứng nhắc, áp đặt.
Cô An nhấn mạnh thêm: "Bộ quy tắc về ứng xử với cách xưng hô như thế nào chúng tôi cũng dựa trên tình hình thực tế và có khảo sát để đưa vào. Qua đó, chúng tôi khuyến khích cán bộ, giáo viên nên thực hiện theo chứ cũng không bắt ép mọi người phải thực hiện theo khuôn mẫu chung nào cả.
Việc gọi học sinh như thế nào cho hợp lý nhà trường cũng để giáo viên chủ động trong cách dùng từ, nhưng phải nhẹ nhàng và thân thiện với học sinh nhất. Mục đích cuối cùng thông qua việc giao tiếp đó, khoảng cách giữa cô và trò được rút ngắn lại, tạo ra tâm lý hứng thú, tiếp thu bài giảng thật tốt của học sinh với các giáo viên".
Bày tỏ quan điểm về vấn đề này, Thạc sĩ Đậu Xuân Thoan - Phó viện trưởng Viện Khoa học phát triển tài sản trí tuệ (IPDI) cho rằng: "Xét về góc độ pháp lý, trong Luật Giáo dục từ trước tới nay, những nhà làm luật họ cũng không đưa ra điều khoản nào để quy định bắt buộc, yêu cầu giáo viên phải xưng hô thế nào.
Điều đó là do xuất phát từ thực tế, khi thực hiện việc giao tiếp ứng xử trong các nhà trường, tùy từng cấp học, từng địa phương mỗi nơi họ cũng sẽ có những cách xưng hô khác nhau để phù hợp với điều kiện của nhà trường đó.
Chẳng hạn, ở khu vực miền Nam thì không chỉ trong các nhà trường học sinh mới xưng là "con" với các giáo viên mà khi giao tiếp ngoài xã hội, các em nhỏ cũng xưng là "con" với người lớn. Qua nhiều thế hệ, họ sử dụng cách xưng hô như thế trong giao tiếp nó như một thói quen và trở thành "câu cửa miệng" ở khu vực đó.
Khi ấy, phần vì cách xưng hô ấy là thuận tiện, tạo khoảng cách gần gũi cho các bên nên họ sử dụng từ xưng hô đó vào đại trà và trên diện rộng. Ở trong các nhà trường cũng vậy, nếu chúng ta đưa cách xưng hô theo kiểu bắt buộc phải là phải như thế nào, mang tính ép buộc thì rất dễ tạo ra tranh cãi không cần thiết. Một đề xuất mà không dựa trên thực tế cuộc sống, dựa trên các quy định của pháp luật đã có từ trước thì đề xuất đó là vô nghĩa, thiếu tính thực tế".
Thạc sĩ Đậu Xuân Thoan - Phó viện trưởng Viện Khoa học phát triển tài sản trí tuệ (IPDI). Ảnh: T.D
Thầy Thoan chia sẻ thêm: "Còn dưới góc độ phong tục, tập quán của dân tộc, từ xa xưa các thầy đồ dạy học cũng đã sử dụng cách gọi các học trò của mình là "con", và người học thời đó cũng xưng "con" với thầy giáo của mình. Từ những cách gọi thân thương, gần gũi như thế, sau này trong dân gian mới truyền nhau câu nói "cô giáo như mẹ hiền".
Tất nhiên, trong thời buổi hiện đại, nhiều biến cố của giáo dục đã xảy ra, mối quan hệ thầy trò cũng đã có nhiều thay đổi chứ không vẹn nguyên như trước. Vì thế, các trường ở mỗi địa phương cũng đã sử dụng các cách gọi khách nhau để phù hợp với lứa tuổi, đặc trưng vùng miền. Nhưng cái cốt lõi là làm sao để giữ lại sự kỷ cương, tôn trọng giữa thầy và trò.
Theo tôi, không nên đưa ra quy định cứng việc xưng hô giữa giáo viên với các học sinh trong nhà trường làm gì cả. Việc này cần tùy theo tình hình của khu vực, sự linh hoạt của từng giáo viên ở các cấp học. Làm sao để vừa đảm bảo được sự tôn kính, lễ phép nhưng cũng phải đảm bảo được sự thân thiện và tiếp thu kiến thức tốt nhất của học trò".
Tư liệu tham khảo:
[1]. https://laodong.vn/ban-doc/tranh-cai-gay-gat-truoc-de-xuat-giao-vien-khong-goi-hoc-sinh-la-con
Đảm bảo cung ứng sách giáo khoa lớp 3, lớp 7, lớp 10 năm học 2022-2023 Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa ban hành văn bản về thực hiện bồi dưỡng giáo viên và cung ứng sách giáo khoa lớp 3, lớp 7, lớp 10 năm học 2022-2023. Đảm bảo cung ứng sách giáo khoa lớp 3, lớp 7, lớp 10 năm học 2022-2023 Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị các sở giáo dục và đào...