Hỏi khó: Vết thương ở miệng và ngoài da, ở đâu lành nhanh hơn nhỉ? Và câu trả lời là…
Sự khác biệt trong bộ gene của hai bộ phận này tưởng chừng như rất nhỏ, nhưng chúng lại mang đến kết quả trái ngược nhau hoàn toàn.
Ắt hẳn không ít lần chúng ta “lỡ miệng” cắn trúng, hay bị xước vùng nướu do ăn phải thức ăn cứng. Và cảm giác này thật sự chẳng dễ chịu một chút nào cả.
Thế nhưng, nếu bạn để ý một chút, vết thương ở miệng dù khó chịu, nhưng sẽ chóng lành lại trong một thời gian ngắn.
Còn với những tổn thương tương tự ở các vùng da khác, chúng sẽ mất một khoảng lâu hơn mới trở về bình thường.
Vì sao lại có điều lạ kỳ này thế nhỉ?
Theo một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Science Translational Medicine, đội ngũ các nhà khoa học tại Viện Y học Hoa Kỳ đã tìm ra được yếu tố đặc biệt khiến việc phục hồi tổn thương ở vùng miệng nhanh chóng hơn cả.
Video đang HOT
Để thực hiện nghiên cứu, họ đã thử nghiệm tạo ra các vết thương nhỏ ở cánh tay và miệng cùng lúc, có cùng độ nông-sâu tương đồng nhau. Mục đích của việc này là để xem tốc độ hồi phục của hai vết thương có sự khác biệt hay không (trong điều kiện không có các tác nhân gây ảnh hưởng, như hút thuốc, không súc miệng, che chắn vết thương kỹ lưỡng…).
Hình ảnh đối chứng về tốc độ hồi phục của vết thương có kích thước 3-mm (Group 1) và 5-mm (Group 2) lần lượt ở da và nướu. Trong khi vết thương ở miệng chỉ mất từ 6 – 7 ngày để hồi phục, vùng da phải mất hơn 1 tuần mới lành hẳn.
Kết quả là, cùng một mức độ tổn thương nhưng vùng niêm mạc nướu chỉ tốn chưa đến 10 ngày để hồi phục hoàn toàn. Trong khi đó, vùng da cánh tay của chúng ta phải tốn đến 14-15 ngày cho kết quả tương tự.
Tiếp đến, khi đem các mẫu tế bào ở những vết thương này để phân tích, đội ngũ nghiên cứu đã phát hiện thêm nhiều điều lý thú.
Cụ thể, các tổ hợp gene như SOX2, PITX1 và PITX2 chỉ có trong tế bào niêm mạc má có chức năng giúp tổ chức sống được tái tạo nhanh chóng – gấp 4 lần so với các cơ quan khác. Và khi thử nghiệm các loại protein này trên da của loài chuột, sự phục hồi cũng được thúc đẩy đáng kể, so với quá trình tự nhiên.
“Kết quả nghiên cứu có thể là bước tiến mới trong việc tìm ra phương pháp phục hồi vết thương bằng sinh học cho con người” – đội ngũ nghiên cứu đã phát biểu trên tạp chí.
Viễn cảnh về phương pháp điều trị nhờ vào việc bổ sung hệ gene này mang lại hi vọng trong tương lai. Tuy nhiên, có lẽ các nhà khoa học sẽ cần một chút thời gian nữa, để mang lại kết quả khả quan nhất đến người bệnh.
Theo Helino
Ngày càng nhiều người chọn sinh mổ và điều này đang gây một hiệu ứng tiến hóa "lạ"
"Lạ" nhưng không có nghĩa là không tốt. Hơn nữa nhờ vậy, bộ gene của chúng ta cũng đa dạng hơn chăng?
Khi khoa học kỹ thuật phát triển hiện đại, ngày càng nhiều thai phụ lựa chọn giải pháp sinh mổ. Dĩ nhiên, sinh mổ đem lại rất nhiều lợi ích - như ít đau đớn và giảm tỷ lệ tử vong của mẹ và bé đều giảm xuống - nhưng cũng có nhiều nhược điểm về mặt y tế dành cho người mẹ.
Ở đây, chúng ta sẽ không bàn đến các điểm này. Vấn đề là theo một nghiên cứu gần nhất, thì dường như xu hướng lựa chọn sinh mổ tăng đã gây ảnh hưởng đến quá trình tiến hóa của con người.
Thực tế thì trước kia, phương pháp sinh mổ thường chỉ được áp dụng khi thai nhi gặp bất thường, không thể chào đời bằng phương pháp sinh tự nhiên. Tuy nhiên nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ lệ những ca không thể sinh tự nhiên đang tăng lên, từ 30/1000 ca vào năm 1960 thành 36/1000 ca ở thời điểm hiện tại. Nhìn tưởng ít, nhưng đó là mức tăng đến 20%.
Theo tiến sĩ Philipp Mitteroecker từ ĐH Vienna (Áo), quá trình tiến hóa đã cho một thế hệ trẻ sơ sinh ngày càng... bự hơn, vì điều đó chứng tỏ sức khỏe của bé rất tốt, và khả năng sống sót cao hơn. Tuy nhiên, cũng chính áp lực tiến hóa đã khiến số lượng các bà mẹ có khung xương chậu hẹp tăng cao.
Với khung xương chậu hẹp, phụ nữ có thể dễ dàng đứng thẳng, khả năng thăng bằng tốt hơn, nhờ vậy tỷ lệ sảy thai hoặc sinh non sẽ giảm xuống. Có điều khi kết hợp cả 2 yếu tố thì chuyện các em bé chào đời theo cách tự nhiên là điều không thể.
Nếu đầu em bé quá to hoặc xương chậu người mẹ quá hẹp, bé có thể sẽ bị mắc kẹt vì bộ khung ấy. Trong quá khứ, đỡ đẻ cho những ca như vậy là rất khó, có thể giết chết cả mẹ lẫn con, và bộ gene "xương chậu hẹp" sẽ không thể tiếp tục lưu truyền.
Trong quá khứ, các trường hợp sinh nở mà sản phụ có khung xương chậu hẹp rất khó để thực hiện
"100 năm trước, phụ nữ với khung xương chậu hẹp thường khó lòng sống sót khi sinh. Còn bây giờ, họ có thể chuyển bộ gene xương chậu hẹp ấy cho con mình." - bác sĩ Philipp Mitteroecker, đồng tác giả nghiên cứu cho biết.
Về mặt lý thuyết, nó sẽ làm thay đổi quá trình tiến hóa của con người, vì những bộ gene "hơi bất lợi" sẽ ngày càng lan rộng hơn. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng chưa có kết luận chính thức, vì các bằng chứng vẫn còn khá mơ hồ, chỉ dựa trên số liệu do WHO cung cấp thôi.
Có rất nhiều lý do để các bác sĩ chỉ định sinh mổ, nhưng hơi khó phân loại. Chẳng hạn, với các trường hợp sản phụ đã cao tuổi, họ buộc phải sinh mổ vì cơ quan sinh dục đã không còn linh hoạt như trước. Sản phụ bị béo phì và tiểu đường cũng sẽ được chỉ định sinh mổ.
Tham khảo: IFL Science
Theo Helino
Từ 1 thói quen khi đi biển ai cũng từng làm: Chuyên gia cảnh báo về khả năng bị nhiễm loại kí sinh trùng nguy hiểm Một cậu bé 17 tuổi đã bị nhiễm giun móc trong chuyến đi biển, sau khi được bạn bè chôn xuống bãi cát, cùng nhiều trò vui chơi trên bờ biển. Michael Dumas (đến từ Memphis, Tennessee, Mỹ) đã đi chơi biển cùng bạn bè ở Florida vào tháng 6. Họ cùng nghỉ ngơi và vui chơi tại bãi biển Pompano. Vài ngày...