Điều tai hại gì xảy ra nếu bạn uống nhiều rượu?
Không chỉ làm hại gan, rượu còn gây hại đến nhiều cơ quan khác trong cơ thể. Bên cạnh một số tác hại đã được biết đến, uống rượu nhiều còn gây ra nhiều tác hại khác có thể làm bạn sốc.
Nếu bạn uống nhiều rượu, hãy nên bỏ rượu sớm, trước khi quá muộn! – ẢNH MINH HỌA: SHUTTERSTOCK
Sau đây là 5 tác hại ít được biết đến của rượu đối với cơ thể, theo bác sĩ tiêu hóa và gan mật của Phòng khám Cleveland Clinic (Mỹ), tiến sĩ Narayanan Menon, theo Health Cleveland Clinic.
1. Hại gan
Uống rượu buộc cơ thể phải làm việc nhiều hơn nên hạn chế các quá trình khác. Một khi uống rượu, cơ thể sẽ ưu tiên việc chuyển hóa trước tất cả các quá trình khác.
Không như protein, carbohydrate và chất béo, cơ thể không có cách nào để lưu trữ rượu, vì vậy rượu phải di chuyển đến phía trước của dòng chuyển hóa. Đây là lý do tại sao rượu tác hại đến gan, vì nhiệm vụ của gan là giải độc và loại bỏ rượu khỏi m.áu.
Lạm dụng rượu khiến vi khuẩn phát triển trong ruột, cuối cùng di chuyển qua thành ruột vào gan, dẫn đến tổn thương gan.
Video đang HOT
2. Hại tim
Uống quá nhiều rượu không tốt cho tim, có thể làm cho tim trở nên yếu đi, gây bệnh cơ tim và gây rối loạn nhịp tim. Đồng thời cũng làm tăng huyết áp.
3. Hại tụy
Lạm dụng rượu có thể gây viêm tụy.
4. Gây ung thư
Uống quá nhiều rượu có thể dẫn đến nguy cơ mắc một số bệnh ung thư, như ung thư miệng, thực quản, cổ họng, gan và ung thư vú.
5. Suy giảm miễn dịch
Uống nhiều rượu có thể ảnh hưởng đến hệ miễn dịch. Nếu uống hằng ngày, hoặc hầu như mỗi ngày, sẽ bị cảm lạnh, cúm hoặc các bệnh khác thường xuyên hơn so với những người không uống rượu. Nguyên nhân là do rượu có thể làm suy yếu hệ miễn dịch và khiến cơ thể dễ bị nhiễm bệnh hơn.
Điều gì xảy ra cho gan khi uống rượu?
Gan có nhiệm vụ giải độc và loại bỏ rượu khỏi m.áu thông qua quá trình ô xy hóa, giải phóng ra nước và CO2. Nếu rượu tích tụ trong hệ thống, nó có thể phá hủy các tế bào và cuối cùng là phá hủy các cơ quan. Quá trình chuyển hóa ô xy hóa có tác dụng ngăn chặn điều này.
Nhưng khi uống nhiều rượu đến độ gan không thể xử lý kịp thời, chất độc hại bắt đầu gây hại cho cơ thể, bắt đầu từ gan. Tiến sĩ Menon cho biết quá trình chuyển hóa ô xy hóa rượu, tạo ra các phân tử ức chế quá trình ô xy hóa chất béo trong gan, từ đó gây ra gan nhiễm mỡ.
Bệnh gan nhiễm mỡ do rượu ở giai đoạn đầu, phát triển ở khoảng 90% những người uống nhiều hơn 1,5 – 2 đơn vị cồn mỗi ngày. Nghĩa là tương đương với 1,5 – 2 lon bia, hoặc 220 – 330 ml rượu vang, hoặc 70 – 90 ml rượu nặng. Vì vậy, nếu hầu như ngày nào cũng uống nhiều hơn mức này, có thể sẽ bị gan nhiễm mỡ. Uống liên tục cuối cùng sẽ dẫn đến xơ gan.
Nhưng rất may là vẫn còn cơ hội nếu bỏ rượu kịp thời! Bệnh gan nhiễm mỡ thường có thể hồi phục trong khoảng 4 – 6 tuần nếu bỏ rượu hoàn toàn.
Tuy nhiên, nếu để quá muộn, đến giai đoạn xơ gan, thì không thể đảo ngược và có nguy cơ dẫn đến suy gan cho dù lúc đó có bỏ rượu đi chăng nữa, theo tiến sĩ Menon.
Vì vậy, nếu bạn uống nhiều rượu, hãy nên bỏ rượu sớm, trước khi quá muộn, theo Health Cleveland Clinic.
Dinh dưỡng trong điều trị ung thư đầu cổ và thực quản
Nói đến ung thư vùng đầu cổ là nói đến những khối u ác tính ở vùng đầu và cổ, bao gồm miệng, mũi, họng, thanh quản và các xoang.
Biểu hiện thường gặp của ung thư đầu cổ và ung thư thực quản là những vết loét khó liền, nuốt khó và nổi hạch vùng cổ.
Ung thư vùng đầu cổ có thể chữa khỏi nếu được phát hiện ở giai đoạn sớm, tỷ lệ sống sau 5 năm có thể đạt trên 90%, nhưng nếu ở giai đoạn tiến triển thì tiên lượng rất xấu. Ở Việt Nam, ung thư đầu cổ đứng hàng thứ 3 và ung thư thực quản đứng hàng thứ 5 trong số các loại ung thư thường gặp. Ung thư vùng đầu cổ và thực quản đặc biệt có ảnh hưởng không nhỏ tới dinh dưỡng của người bệnh. Các vấn đề về dinh dưỡng thường gặp ở người bệnh ung thư vùng đầu cổ và thực quản.
Sụt cân và suy dinh dưỡng: Sụt cân không chỉ ảnh hưởng tới tiên lượng bệnh mà còn liên quan tới giảm hoạt động chức năng và giảm chất lượng cuộc sống, ảnh hưởng tới liệu trình điều trị. Sụt cân trong khi xạ trị vùng đầu cổ có thể làm mất tính an toàn và hiệu quả của liệu pháp này. Trong hóa trị, sụt cân còn cản trở người bệnh không nhận được liều điều trị tối ưu.
Viêm tuyến nhày, cứng hàm, khô miệng, xơ hóa thanh quản dẫn tới thay đổi mùi vị, giảm thèm ăn. Với bệnh nhân ung thư thực quản, các biểu hiện thường gồm viêm tuyến nhày, đau thực quản và nuốt khó, trong đó nuốt khó gặp phải trên 90% bệnh nhân ung thư thực quản khiến biểu hiện này trở nên đặc hiệu ở nhóm bệnh nhân này.
Sưng, đau, nhai khó, nuốt nghẹn tiềm ẩn nguy cơ thiếu hụt khẩu phần. Giảm hứng thú ăn uống cũng là một vấn đề ở bệnh nhân ung thư đầu cổ và thực quản. Bệnh nhân nuốt khó sau điều trị liên quan tới giảm rõ rệt chất lượng cuộc sống và tăng lo âu, hồi hộp cho người bệnh. Do đó bệnh nhân ung thư thực quản và dạ dày nên được hỗ trợ về tiết chế và chức năng ngôn ngữ trong vài tháng sau khi kết thúc điều trị và họ cũng không thể quay lại được chế độ ăn bình thường mà không cần bổ sung dinh dưỡng.
Tiêu chảy, buồn nôn và nôn: Tiêu chảy, nôn và buồn nôn là tác dụng phụ thường gặp do một số loại hóa chất gây nên. Nếu không kiểm soát tốt, tiêu chảy có thể gây mất dịch, điện giải, suy dinh dưỡng và kéo dài thời gian nằm viện. Tuyến nhày đường ruột và quá trình tiêu hóa thực phẩm cũng bị ảnh hưởng, do đó ảnh hưởng tới sự tiêu hóa và hấp thu thức ăn ở các mức độ khác nhau, làm giảm chuyển hóa năng lượng, protein và vitamin.
Một số lời khuyên dinh dưỡng: Duy trì cân nặng khỏe mạnh, cung cấp chế độ ăn giàu năng lượng và protein mỗi ngày; ăn đa dạng các loại thực phẩm. Thay vì sử dụng các thực phẩm thông thường gây khó nhai, nuốt nghẹn có thể chế biến các thực phẩm dưới dạng lỏng, nhuyễn mịn như súp, sữa, sinh tố, nước ép hoa quả tươi.
Bệnh nhân cũng nên chia nhỏ bữa ăn trong ngày có thể từ 6 - 8 bữa thay vì ăn 3 bữa chính để cung cấp được nhiều năng lượng hơn.
Theo kinhtedothi
Tự đ.ánh giá nguy cơ mắc ung thư từ chính cách ăn uống của bản thân Thức uống quá nóng được chứng minh là làm tăng nguy cơ mắc ung thư thực quản. Trong khi đó, thực phẩm được bảo quản bằng muối lại có thể khiến rủi ro phát triển ung thư dạ dày trở nên cao hơn. Từ những năm 60 của thế kỷ trước, ngành y học thế giới đã bắt đầu có những nghiên cứu...