Để mất tình yêu đẹp vì mải nghề ‘bán phấn buôn hương’
Dù biết cô làm nghề “ bán phấn buôn hương”, nhưng chàng sinh viên nghèo vẫn dành cho cô tình yêu chân thành đến khó tin. Chàng sinh viên đó đã cố dùng tình yêu của mình những mong người yêu có ngày “ quay đầu” trở lại cuộc sống lương thiện…
Chỉ khi bước chân vào trại phục hồi nhân phẩm, cô mới choàng tỉnh nhận ra tình yêu quý báu và cơ hội hoàn lương đã bị chính bàn tay cô vứt bỏ…
Những mối tình dang dở
Sinh ra ở miền quê nghèo Thái Nguyên, Đinh Thị N. (SN 1987) sớm tìm đường lên thành phố, những mong có được cuộc sống tốt đẹp hơn.
Một mình mẹ N. phải gắng gượng nuôi 5 chị em cô vì cha mất sớm, nhưng bà là người chiều con, chẳng bao giờ dám mở miệng ngăn cản các quyết định của con cái bao giờ.
Lo lắng cho thân gái phải bươn trải chốn thị thành, nhưng mẹ N. vẫn không dám ngăn cô con gái mới lớn rời bỏ mình để đến “miền đất hứa”.
Lên Hà Nội năm 18 tuổi, N. vào làm chân bưng bê cho 1 tiệm ăn. Nơi đô thị, N. đã trải qua mối tình đầu với 1 người đàn ông đã có vợ, làm nghề lái xe.
Sau 8 tháng say trong men tình, N. mới nhận ra người yêu mình chỉ là kẻ lừa dối. Khi biết được sự thật về việc anh ta đã có vợ con, N. trốn chạy bằng cách bỏ về quê, không để lại một lời nhắn gửi.
Về quê, cô xin vào làm ở 1 quán cà phê gần Đài truyền hình tỉnh. Và một lần nữa, trái tim cô lại rung động trước chàng phóng viên của đài truyền hình gần đó.
Thế nhưng một lần nữa tình yêu của N. lại dang dở khi bố mẹ người yêu cho rằng, cô không xứng đáng với con trai họ nên đã ra sức cấm cản.
Tình yêu của chàng phóng viên cũng không đủ lớn để anh vượt qua sự ngăn cản từ phía gia đình. Vậy nên, một lần nữa, N. lại phải ôm trái tim đau. Lần này cô lại chạy trốn. Cô bỏ lên thành phố tìm việc làm.
Con đường thành gái bán dâm
N. dọn đến ở chung với 1 người bạn cùng quê. Cô gái này được bạn trai giàu có mở cho một quán cà phê để làm chủ. Sau một thời gian làm ở chỗ bạn, N. nhận ra đó là quán cà phê trá hình, thực chất là nơi hành nghề của những cô gái “bán phấn buôn hương”.
Quay lại chốn phồn hoa đô hội, cô gái tỉnh lẻ như N. bị choáng ngợp bởi những thứ vật chất nơi đô thị. Và rồi cô sa ngã sau những lời tỉ tê của bạn.
Lần đầu cô bán “cái ngàn vàng” cho 1 đại gia. Trinh tiết của cô đáng giá 8 triệu đồng. Cầm trong tay số tiền 8 triệu đồng – số tiền nhiều nhất mà cô từng được sở hữu, N. không biết nên vui hay nên buồn.
Video đang HOT
Nhưng rồi cái cảm giác hổ thẹn đó nhanh chóng qua đi. Có tiền, cô mua sắm cho mình đủ thứ quần áo, phấn son, những thứ đồ mà trước đó cô chỉ dám mơ mà chưa một lần đủ tiền để chạm tay đến.
Đinh Thị N
Giải thích về việc mình bước chân vào con đường làm gái bán dâm, N. nói: “Em cũng không biết tại sao mình lại theo cái nghề đó nữa. Có lẽ là vì em ham chơi bời quá, muốn có cái này cái kia, những thứ mà bạn bè đồng lứa đều có nhưng em có mơ cũng không có được…”
Và sau lần đầu bán “cái ngàn vàng” đó, N. bước chân vào nghề làm gái bán dâm với mỗi lần đi khách từ 2-3 triệu đồng. Cuộc đời cô kể từ lúc này hiếm khi có được nụ cười trên môi dù tiền tiêu rủng rỉnh.
Nuối tiếc tình yêu đẹp
Trong những năm tháng làm gái bán dâm đó, N. liên tục thay đổi chỗ ở, bởi mỗi khi đến thuê trọ ở đâu đó, cô không thể chịu nổi ánh mắt khinh thị của những người hàng xóm khi họ biết cô làm gái bán dâm.
Và lần thay đổi chỗ trọ cuối cùng, cô đã gặp được tình yêu của mình, mối tình đẹp mà cô bước vào như đi trong mơ khi người yêu cô là 1 chàng sinh viên nghèo, ở cùng xóm trọ. N. nhớ lại ngày đầu tiên cô gặp chàng sinh viên nghèo.
Đó là ngày 20/10/2010, khi cô mới dọn đến ở xóm trọ ở Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội. “Hôm đó các nhân khẩu nam của xóm trọ tổ chức ăn mừng ngày dành cho chị em phụ nữ. Trong bữa tiệc đó, em đã gặp anh ấy”, N. kể.
Ngay lần đầu gặp gỡ, chàng sinh viên nghèo đã bị N. hớp hồn. Nhìn cô trong bộ quần áo giản dị, gương mặt hiền, đôi mắt biết cười và hàm răng trắng đều, không ai nghĩ N. làm nghề “bán phấn buôn hương”.
Tình yêu đến với N. và chàng sinh viên hết sức tự nhiên. Đầu tiên là những giúp đỡ thông thường như, khi N. đi làm chưa về, gặp hôm trời mưa, chàng sinh viên luôn thu gom quần áo, gấp cẩn thận rồi tối về giao lại cho chủ nhân của nó.
Rồi những cử chỉ quan tâm, chăm sóc nho nhỏ, khi là bắp ngô, lúc là cái bánh rán dúi vội… Những việc làm nhỏ bé đó đã đưa 2 người xích lại gần nhau hơn, rồi họ yêu nhau lúc nào không biết.
Khi yêu N., chàng sinh viên năm cuối biết cô làm thứ nghề mà xã hội vốn không tôn trọng, thế nhưng anh vẫn không thể ngăn trái tim mình thôi rung động trước cô gái xinh đẹp, có nụ cười thật duyên.
Chàng sinh viên thì chân tình, nhưng N. cho biết, cô bước vào tình yêu với nỗi mặc cảm to lớn về thân phận “làm gái” của mình. Khi biết N. có tình yêu mới, những “đồng nghiệp” của cô cho rằng: “Khi đã làm nghề này rồi thì làm gì có người thật lòng với mình”.
Đem mặc cảm tự ti đó, N. cũng không dám rộng lòng đón nhận tình cảm chân thành của chàng sinh viên. Cô vừa yêu vừa đề phòng, chỉ sợ có ngày mình bị tổn thương.
Món quà mà chàng sinh viên dành cho N. không phải là những thứ hàng hiệu đắt tiền, nhưng N. vẫn luôn quý trọng những món quà xuất phát từ tấm chân tình của chàng sinh viên nghèo.
“Khi thì anh ấy mua áo đôi cho 2 đứa, có lúc anh mua liền 4 đôi giầy cho em đi thay đổi”, N. kể.
Tình yêu của họ không màu mè, chỉ là những buổi cùng ngồi chơi games, cùng ra đầu ngõ ăn những món quà vặt bình dân, nhưng cũng đủ cho N. thấy ấm lòng, không giống như khi ở bên những gã đàn ông lắm tiền nhiều của nhưng chỉ coi cô là công cụ để thỏa mãn dục vọng.
Để chứng minh tình cảm thật lòng của mình dành cho người yêu, chàng sinh viên đã đưa N. về quê ra mắt mẹ. Vậy mà cậu sinh viên nghèo vẫn không khiến N. tin tưởng.
“Em không nghĩ là người ta thật lòng với mình. Khi đó em nghĩ, tình cảm của anh ấy dành cho mình chỉ là gió thoảng mây bay thôi nên bản thân em không dám hết lòng đón nhận tình yêu của anh ấy”, N. nói.
Yêu N., chàng sinh viên khổ sở khi không thể khuyên cô bỏ nghề. Nhiều đêm, cậu sinh viên nhẫn nại chờ N. đi làm về. Cậu ta đứng ngồi không yên, nhắn tin cho cô: ” Đừng nên đi chơi khuya, mọi thứ cần có điểm dừng…”.
Thế nhưng N. đã không biết đến điểm dừng đó. Cô bị công an bắt quả tang khi đang bán dâm cho khách tại 1 nhà nghỉ. Đó là lý do cô bị đưa vào Trung tâm giáo dục lao động xã hội số 2 Ba Vì – Hà Nội.
N. tiếc nuối nhớ lại: “Hôm đó em đã định ở nhà, chờ anh ấy đi dạy thêm về rồi cả hai đi chơi. Nhưng gần đến giờ anh về, em có khách gọi, lưỡng lự một lát rồi cuối cùng em lại nhận lời “đi khách”. Kể từ hôm đó, em không được gặp anh ấy nữa…”
N. bị đưa vào Trung tâm 2 đã được 5 tháng. Từ đó đến nay cô bặt tin về người yêu. “Hôm chị em đến dọn đồ của em, anh ấy buồn lắm, có sang hỏi thăm thì chị em bảo em vào TP HCM rồi…”, N. nói.
Trong màu áo xanh của học viên Trung tâm 2, gương mặt Đinh Thị N. (SN 1987, ở Thái Nguyên) sáng bừng khi kể về tình yêu của mình với chàng sinh viên nghèo lúc cô còn là 1 gái bán dâm.
Giờ thì hạnh phúc đã vuột khỏi tay cô. Những ngày tháng phải lao động ở Trung tâm 2, kỷ niệm tình yêu với chàng sinh viên nơi xóm trọ nghèo như thứ kẹo được N. cất giấu kỹ, thỉnh thoảng lại lôi ra nhấm nháp vị ngọt của nó.
Cô tiếc lắm khi có được tình cảm chân thành của chàng sinh viên dành cho mình nhưng cô đã không biết quý trọng, không biết điểm dừng để có được hạnh phúc.
“Đôi khi em nhớ và muốn gặp lại anh ấy, thế nhưng em nghĩ mình không nên gặp lại anh thì hơn. Bởi em thấy hổ thẹn với anh ấy vô cùng. Hơn nữa không gặp lại em thì tốt cho anh ấy hơn”.
Lúc này đây, N. vẫn hàng ngày lao động chăm chỉ để mong sớm có ngày tự do. Mỗi ngày trôi qua, cô đều cầu chúc cho người yêu mình sớm tìm được tình yêu mới, xứng với anh hơn…
Theo Phunutoday
Người chết 15 năm trở về kể chuyện làm "đại ca"
Cứ nhắc đến nhóm của Hiệu, các chủ bãi vàng lại run như cầy sấy. Tuy nhiên, đại ca vang danh một thời cũng có ngày trở về không nguyên vẹn.
Bỏ nhà đi biệt tích từ năm 17 tuổi, không một lần nhắn tin về, gia đình Trần Văn Hiệu tưởng hắn đã chết. Một ngày, cả làng bàng hoàng khi thấy Hiệu trở về với bộ dạng đáng thương, tay cụt, mắt hỏng. Nghèo khó, túng quẫn, Hiệu vẫy vùng tìm cách tháo gỡ. Sau nhiều năm lao vào làm ăn, đến nay Trần Văn Hiệu đã thành tỷ phú từ nghề buôn bán, vận chuyển vật liệu xây dựng và vận tải hành khách.
Trùm giang hồ ngày nào đang trò chuyện với PV
Học võ để làm đại ca nhí
Trần Văn Hiệu (SN 1962, huyện Thanh Miện, Hải Dương) ngày nay nổi danh khắp mấy tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh... với cái tên Trần Cò gắn trên nhiều xe ô tô chở khách. Vậy nhưng mấy người biết được, Hiệu vốn là một tay giang hồ khét tiếng. Được biết, từ thuở nhỏ hắn đã lì lợm và đặc biệt mê võ. Hiệu thích xem phim kiếm hiệp, ngứa ngáy chân tay, đánh đấm suốt ngày. Một ngày kia, máu "yêng hùng" nổi lên, Hiệu ăn trộm tiền của bố mẹ đi tìm thầy học võ. Hắn tìm đến lò võ của một ông thầy ở Bắc Ninh bái sư. Ba năm trời ròng rã tuyệt nhiên hắn chẳng có tin tức về nhà. Chẳng biết, thu lượm được bao nhiêu "thành công lực", năm 17 tuổi Hiệu ung dung về quê hương.
Có chút ít "bản lĩnh" võ nghệ, Hiệu ngày càng ngang ngạnh. Suốt ngày, hắn lang thang, tụ tập đám thanh niên đánh đấm, bày trò nghịch ngợm. Từ lúc đó, hắn đã tự coi mình là "hảo hán làng", nhìn đám thanh niên choai choai cùng tuổi bằng "nửa con mắt". Nhà nghèo, bố mẹ thấy con trai lớn không làm gì cứ nhong nhóng đi ra, đi vào, giắt lưng cồm cộm côn gậy, tính khí thì như đổ lửa càng thêm "nóng" mắt. Những lần bị mắng cứ nhiều hơn nhưng Hiệu chẳng "bắt lời". Lúc này, đã quá chán với sự tù túng, hắn bỏ nhà đi. Bố mẹ Hiệu cũng chỉ nghĩ đi đua đòi linh tinh nhưng sự đời lại đưa đẩy hắn bước chân vào tận mỏ đá đỏ Quỳ Châu - Nghệ An.
Những năm 80 của thế kỷ trước, người dân tứ xứ đổ về Quỳ Châu tìm cơ may đổi vận từ đá đỏ. Trần Văn Hiệu cũng theo dòng người tìm đến "đầu quân" cho một "đại ca" nơi rừng xanh núi đỏ. Hiệu kể lại: "Khi ấy tôi mới hiểu thế nào là rừng thiêng, nước độc. Nhiều người gục ngã, bỏ xác nơi rừng sâu không phải bị cướp thì cũng bị ngã nước. Thời kỳ đó, tôi đang sung sức nên may mắn vượt qua tất cả. Tôi cũng đã tạo ra nhiều "chiến công" cho "đại ca" và vô tình cũng tích luỹ "số má" cho bản thân mình".
Tận mắt chứng kiến sự rẻ rúng của những viên đá, mà có thời người ta bảo quý hơn vàng và có người phải đổi cả tính mạng, Hiệu cũng thấy ngán sự đời. Tuy nhiên, hoạ may lắm mới có ai đó đào được viên đá quý và giá bán cũng chỉ được vài triệu đồng. Còn những chuyện đá đỏ bán được cả trăm triệu đồng chỉ là tin đồn nơi núi thẳm. Ngao ngán với đá đỏ, Hiệu bỏ nơi đầu tiên mình dấn thân giang hồ để đi tìm vùng đất mới để thoả chí vẫy vùng.
Những cuộc chiến giành lãnh địa
Trần Văn Hiệu không nhớ nổi mình đã tham gia bao nhiêu cuộc chiến tranh giành lãnh địa, tranh giành mỏ tốt. Cuộc chiến ở những nơi này, chân lý, lẽ phải dành cho kẻ mạnh. Thắng làm vua, thua làm giặc, tất cả sự phân chia đều do kẻ mạnh hơn định đoạt. Con người ở đây giẫm đạp lên nhau mà sống. Muốn tranh được đoạn mỏ tốt thì phải chiến đấu và muốn giữ được mỏ để khai thác cũng cần đến lực lượng đủ mạnh để giao tranh. Anh Hiệu kể lại: "Ngày ấy nhóm "thất hùng" (7 anh em giang hồ) chúng tôi làm mưa làm gió nhiều bãi vàng, mỏ thiếc. Tiếng tăm của chúng tôi làm nhiều chủ bưởng khác cũng phải khiếp sợ. Sự liều lĩnh, bất chấp sống chết khiến băng nhóm như những con mãnh hổ tung hoành giữa rừng mà chẳng biết sợ ai. Chúng tôi tự đặt ra "luật rừng" nơi mình "đóng trại". Ngẫm lại bây giờ tôi cũng thấy ớn".
Một ngày tháng 2/1995, tiết trời vẫn còn se lạnh. Rừng sâu Thái Nguyên, nơi có bãi thiếc vẫn còn yên lắng. Sương chiều vắt trên ngọn cây, che đi ánh nắng đầu mùa yếu ớt. Sau một ngày làm việc nơi bãi thiếc, chủ chòm Hiệu xuống suối tắm như thường ngày. Một không gian yên tĩnh đến lạ thường. Bỗng... ầm! Tiếng lựu đạn vang lên, Hiệu bị thương nặng. Tai nạn đổ xuống, lúc ấy đám đàn em và thợ đãi thiếc nói là sập hầm. Tuy nhiên, nói chuyện với tôi, anh Hiệu kể thật nội tình: "Ngày ấy nhóm tôi mạnh nên nhiều bọn đố kỵ lắm. Rồi từ những mâu thuẫn do tranh chấp lãnh địa, tranh chấp mỏ, một nhóm khác đã thuê bọn nghiện dùng lựu đạn tấn công khi tôi đi tắm dưới suối. Tôi thành ra như hôm nay là từ vụ tai nạn đó".
Tai nạn đã chấm dứt những ngày tháng vẫy vùng của Trần Văn Hiệu. Anh được vợ chồng người bạn đưa về quê nơi có mỏ than Núi Hồng ở Đại Từ - Thái Nguyên cưu mang. Trần Văn Hiệu ẩn mình thật sâu. Anh quên tất cả, quên ngay chính bản thân mình. Còn ở quê nhà, sau nhiều năm không có tin tức gì của con trai, gia đình tưởng Hiệu đã chết mất xác nơi thâm sơn cùng cốc. Vậy là, hàng năm cứ nhớ ngày Trần Văn Hiệu ra đi, bố mẹ lại thắp hương, sửa soạn mâm cơm làm giỗ cho anh. Có đến 5 năm làm giỗ con, bao lần người mẹ thương con khóc khô nước mắt, bao lần người bố tự trách mình đã nặng lời với con...
T ự tung tự tác ở 15 bãi vàng Trong bộ áo nâu sòng, dáng ngồi thoải mái, giọng nói nhỏ nhẹ khiến tôi không thể hình dung mình đang ngồi đối diện với một tay giang hồ "có hạng" của nhiều bãi vàng những năm trước đây. Một tay đã cụt gần đến vai như để trả lại những ngày tháng làm trùm. Nắm chặt bàn tay còn ba ngón như nhớ đến thời "oanh liệt nơi rừng thẳm", anh Hiệu kể: "Rời mỏ đá đỏ Quỳ Châu, tôi tìm đến vùng Lục Yên (Yên Bái) tìm đá quý, rồi lại tìm vàng nơi núi rừng Hoàng Liên Sơn, bãi vàng Ma-nu, Khâu U (Cao Bằng), sau đó đến mỏ thiếc... Đôi chân tôi và các anh em trong nhóm đã đi không biết bao nhiêu rừng núi. Đâu có bưởng vàng, lò thiếc, mỏ đá quý là tôi tìm đến". Được biết, với 10 năm ngang dọc, Hiệu đã đi khoảng 15 điểm bãi khác nhau.
Theo NDT
Những nẻo đường phục thiện (1): Phúc "Nhiếp", quán rượu dừng bước giang hồ Từng là những tay anh chị có số, có má trong giới giang hồ, từng xưng hùng xưng bá dọc ngang trời đất, từng có thâm niên ăn cơm tù, mặc áo sọc, nhưng sau bao năm tung hoành ngang dọc, họ đã thức tỉnh để trở về với cuộc sống lương thiện. Đoạn tuyệt với con đường cũ, những tay anh chị...