Đại học Quốc gia Hà Nộ.i yêu cầu cao về nghiên cứu khoa học với giảng viên
Quy định về chế độ làm việc đối với giảng viên tại ĐHQGHN đã chi tiết hóa các nhiệm vụ giảng dạy, đặc biệt chú trọng nhiều hơn đến thực hiện nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng.
Quy chế chú trọng nhiều hơn đến thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học
Giám đốc ĐHQGHN vừa ký ban hành Quyết định số 4326/QĐ-ĐHQGHN Quy định về chế độ làm việc đối với giảng viên tại ĐHQGHN. Văn bản này có hiệu lực từ ngày 1/1/2022, Quy định về chế độ làm việc của giảng viên, nghiên cứu viên tại ĐHQGHN.
Theo đó, quy định chung tổng thời gian làm việc của giảng viên trong một năm học sau khi trừ số ngày nghỉ theo quy định là 44 tuần (tương đương 1.760 giờ hành chính) để thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học (NCKH), phục vụ cộng đồng và thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn khác.
Đặc biệt, quy định về định mức hoạt động nghiên cứu khoa học, giảng viên phải dành tối thiểu 600 giờ hành chính trong một năm học để thực hiện các nhiệm vụ NCKH. Trong 3 năm (từ năm 2022 đến hết năm 2024), mỗi giảng viên đảm bảo một trong các định mức công bố sản phẩm khoa học sau: Tối thiểu 1 bài báo khoa học trên tạp chí thuộc cơ sở dữ liệu WoS hoặc Scopus.
Đối với lĩnh vực khoa học đặc thù khó công bố quốc tế thì tối thiểu 1 bài báo đăng trong kỷ yếu hội nghị, hội thảo quốc tế có phản biện và được xuất bản; Tối thiểu 1 sách chuyên khảo hoặc 2 chương sách chuyên khảo bằng tiếng nước ngoài do nhà xuất bản quốc tế có uy tín hoặc nhà xuất bản thuộc trường đại học nằm trong nhóm 1000 trường đại học hàng đầu thế giới xuất bản; Tối thiểu 1 bằng độc quyền sáng chế theo chuẩn Patent tại Việt Nam hoặc chuẩn Patent của Mỹ hoặc Châu Âu, Đông Bắc Á; Tối thiểu 1 bằng độc quyền giải pháp hữu ích.
Từ năm 2025, cứ 2 năm liên tiếp, mỗi giảng viên đảm bảo định mức công bố tối thiểu 1 bài báo khoa học trên tạp chí thuộc cơ sở dữ liệu WoS hoặc Scopus. Đối với lĩnh vực đặc thù khó công bố quốc tế, cứ 2 năm liên tiếp, mỗi giảng viên đảm bảo định mức công bố tối thiểu 1 bài báo đăng trong kỷ yếu hội nghị, hội thảo quốc tế có phản biện và được xuất bản. Định mức này không áp dụng đối với giảng viên giáo dục thể chất và thể thao, quốc phòng và an ninh.
Quy định cũng đưa ra căn cứ điều kiện, khả năng tài chính của đơn vị và chất lượng sản phẩm khoa học được công bố, người đứng đầu đơn vị có thể quy định định mức hỗ trợ cao hơn.
Trường hợp sản phẩm công bố khoa học có nhiều tác giả cùng công tác tại ĐHQGHN thì phần đóng góp của tác giả chính (hoặc chủ biên, chủ công trình) được tính bằng 1/3, số còn lại được chia theo mức đóng góp của từng tác giả tham gia (tính cả tác giả chính và đồng tác giả); nếu không xác định được cụ thể mức đóng góp thì chia đều theo số tác giả công tác tại ĐHQGHN.
Giữ chân giảng viên trẻ: Cần môi trường làm việc - nghiên cứu đúng nghĩa
Có ý kiến cho rằng, rất khó để giữ chân giảng viên trẻ vì lý do kinh tế. Thế nhưng, đối với một giảng viên đại học có năng lực thì không thiếu gì cách nâng cao thu nhập.
Video đang HOT
Ảnh minh họa/INT
Vấn đề quan trọng là làm sao để giảng viên trẻ không vơi nhiệt huyết, toàn tâm toàn ý vào việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
PGS.TS Phan Cao Thọ - Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật (ĐH Đà Nẵng): Cải thiện môi trường làm việc - nghiên cứu để giữ giảng viên trẻ
PGS.TS Phan Cao Thọ
Ngoài hưởng lương tập sự, giảng viên trẻ cũng nhận được sự "san sẻ" từ các giảng viên chính như đảm nhiệm giúp sinh viên ở các giờ thực hành, hướng dẫn bảo vệ đề tài, trợ giảng, hướng dẫn đề án môn học... Vì thế, dù giảng viên tập sự không được tính giờ giảng nhưng trên thực tế vẫn có thu nhập (tiề.n trợ giảng...).
Thực ra, tổng thu nhập bình quân những năm đầu của cán bộ trẻ không thấp vì họ vẫn được hưởng các chế độ phúc lợi của trường. Chúng tôi luôn tìm mọi cách giúp giảng viên trẻ ổn định cuộc sống, vững chuyên môn để nâng cao chất lượng giảng dạy. Như nguồn quỹ tương trợ của Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật với khoảng 300 triệu đồng hầu như được giải quyết cho các cán bộ trẻ mượn để trang trải chi phí học tập nâng cao trình độ.
Trong điều kiện "cạnh tranh" để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao như hiện nay, điều quan trọng không phải ở chỗ chế độ đãi ngộ mà là điều kiện, môi trường làm việc cùng những chính sách thuận lợi cho việc phát triển chuyên môn.
Nếu môi trường làm việc thân thiện, giảng viên trẻ được tôn trọng, tạo điều kiện tốt để thể hiện được năng lực bản thân, cùng các cơ chế hỗ trợ từ nghiên cứu khoa học (NCKH), hợp tác quốc tế như cho phép giảng viên liên kết với đối tác nước ngoài, doanh nghiệp, tổ chức hội thảo là đòn bẩy rất tốt để cán bộ trẻ thể hiện năng lực cũng như duy trì nhiệt tình cống hiến... Ở Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật hiện có nhiều giảng viên thế hệ cuối 7X, 8X đảm nhiệm công tác quản lý từ bộ môn, khoa cho đến cấp trường.
Cách bền vững nhất để các cơ sở giáo dục đại học giữ chân được giảng viên trẻ chính là cải thiện môi trường làm việc - nghiên cứu của giảng viên như đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và các cơ hội tiếp xúc với thông tin khoa học. Ở môi trường làm việc nào cũng cần có tình đồng nghiệp chân thành và thiện chí. Đấy là đôi cánh nâng đỡ cho cán bộ trẻ có thể vượt qua những khó khăn khi bước vào nghề và trưởng thành nhanh chóng trong chuyên môn.
PGS.TS Võ Thị Thúy Anh - Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế, ĐH Đà Nẵng: Tăng cường năng lực nghiên cứu
PGS.TS Võ Thị Thúy Anh
Ngoài việc xây dựng cơ sở dữ liệu cho giảng viên nghiên cứu và giảng dạy, Trường ĐH Kinh tế, ĐH Đà Nẵng thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo cho giảng viên trẻ về công bố quốc tế, phương pháp phân tích dữ liệu, khai phá dữ liệu, phần mềm nghiên cứu khoa học, sở hữu trí tuệ....
Việc duy trì đều đặn mô hình Nhóm đọc tại các khoa cũng góp phần tạo dựng thói quen sinh hoạt học thuật, là cách để thúc đẩy sự lan tỏa kiến thức, hình thành "cộng đồng bạn đọc khoa học" tại trường và tại các khoa. Với khối ngành kinh tế, để đăng được bài báo trên tạp chí quốc tế có uy tín là không đơn giản.
Người làm NCKH phải biết thế giới nghiên cứu đến đâu rồi từ đó mới tìm được khoảng trống. Muốn như vậy phải tiếp cận được tri thức của thế giới và Nhóm đọc là một kênh giúp giảng viên cập nhật hướng nghiên cứu trên thế giới rất hiệu quả. Qua đó, để có thể cùng nhau đào sâu, tìm được khoảng trống làm nên sự sáng tạo cho những công bố kế tiếp. Chính vì vậy, đối với giảng viên trẻ, đây là cơ hội giúp họ làm đầy tri thức, phục vụ cho công tác giảng dạy, tiếp cận các xu hướng nghiên cứu và hỗ trợ hướng dẫn sinh viên trong nghiên cứu.
Chỉ tính riêng trong năm học 2020 - 2021, Trường ĐH Kinh tế, ĐH Đà Nẵng có 65 công bố quốc tế trên các tạp chí thuộc danh mục WoS/Scopus, trong đó có 44 công trình trên các tạp chí WoS/ISI và 21 công trình trên các tạp chí Scopus. Đặc biệt, một số bài báo thuộc nhóm A* và 60% số bài thuộc xếp hạng Q1 theo Scimago Journal Rank của Scopus.
Trường ĐH Kinh tế, ĐH Đà Nẵng lọt vào tốp 3 trường có nhiều công bố nhất Việt Nam trên danh mục WoS/ISI khối ngành Kinh tế và Kinh doanh/Quản lý. Các giảng viên của nhà trường cũng đã công bố hơn 88 bài báo trên các tạp chí khoa học trong nước, tham gia 105 báo cáo tham luận tại các hội thảo trong nước và quốc tế. Nhà trường cũng ký mới 27 đề tài NCKH các cấp, trong đó có 1 đề tài cấp Nhà nước. Hơn một nửa trong số này do giảng viên trẻ đảm nhiệm.
TS Võ Thanh Hải - Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Duy Tân: Giúp giảng viên trẻ sống được bằng năng lực của mình
TS Võ Thanh Hải
Chúng tôi ý thức rằng, có nhiều tiề.n cũng chưa chắc đã làm NCKH được nếu không giữ chân nhà nghiên cứu. Vì vậy, việc "treo thưởng" nhiều tiề.n cũng chưa chắc đã thu hút được nhà khoa học trẻ đầu quân về trường nếu không tạo dựng được một môi trường NCKH đúng nghĩa.
Ngoài đầu tư phòng lab, nhà trường còn xây dựng cơ chế chính sách, bảo đảm cho các nhà khoa học được phát huy tính sáng tạo và sống được bằng chính năng lực khoa học của mình. Từ năm 2009, Trường ĐH Duy Tân xây dựng lại chiến lược phát triển, đán.h giá lại đội ngũ, những cán bộ, giảng viên chuyên môn hóa NCKH - giảng dạy sẽ chủ yếu tập trung vào NCKH, nghiên cứu những công trình ngoài trường, tham gia giảng dạy chỉ đạt định mức tối thiểu theo quy định. Bên cạnh đó, nhóm giảng viên giảng dạy - nghiên cứu thì các công trình nghiên cứu sẽ phục vụ cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy và đề tài cấp cơ sở hoặc tham gia nhóm nghiên cứu.
Hiện, trường đã xây dựng hoàn chỉnh cơ chế chính sách đặc thù cho các nhà nghiên cứu. Trong đó, thu nhập phải cao hơn hệ giảng viên và được tính vào lương chứ không chỉ dừng lại ở việc khen thưởng đột xuất khi có kết quả. Nhà trường cũng đầu tư cho cán bộ, giảng viên tham gia hội nghị - hội thảo chung với nhóm nghiên cứu của các trường ĐH mà giảng viên nhà trường hợp tác được và đầu tư cho cán bộ nghiên cứu ra nước ngoài hợp tác thực hiện nghiên cứu của mình.
PGS.TS Lê Phước Cường - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Bảo vệ Môi trường, Trường ĐH Bách khoa, ĐH Đà Nẵng: Chính sách mới giúp giảng viên trẻ có thêm động lực trong nghiên cứu
PGS.TS Lê Phước Cường. Ảnh: NVCC
Năm 2012, tôi làm giảng viên tập sự sau 7 năm nghiên cứu và học tập tại Nga. Vì đã xác định sẽ theo con đường nghiên cứu chuyên sâu nên môi trường giảng dạy ở cơ sở giáo dục ĐH là phù hợp. Trong thời gian tập sự, ngoài công việc chủ yếu là chuẩn bị bài giảng cho năm học tiếp theo sẽ giảng dạy, tôi còn đề xuất một số nhiệm vụ khoa học công nghệ để triển khai.
Thời gian đầu tập sự, trường hỗ trợ cho giảng viên trẻ mỗi tháng vài trăm nghìn ngoài lương, tuy ít nhưng cũng vui vì đời sống cán bộ viên chức, đặc biệt là cán bộ trẻ được quan tâm. Còn nói về thu nhập của giảng viên trẻ không đủ sức để giữ chân hoặc thu hút, điều này tùy thuộc vào quan điểm sống của mỗi cá nhân. Với tôi, do thực hiện được một s.ố đ.ề tài nghiên cứu nên đời sống tạm ổn, không cảm thấy quá thiếu thốn và vẫn có nhiều nhiệt huyết để cống hiến.
Với những chính sách mới về KHCN, điều kiện tham gia các hoạt động hội thảo trong nước và quốc tế, chính sách về khen thưởng trên tạp chí quốc tế đã có tác dụng hỗ trợ và khuyến khích sức trẻ trong công tác giảng dạy, sáng tạo và NCKH. Cán bộ trẻ NCKH hiện nay cũng khác trước, có nhiều cơ hội đăng ký thực hiện những đề tài lớn như Nafosted, cấp Bộ, cấp Nhà nước và tỉ lệ có được đề tài để thực hiện khá cao.
Chính sách phát triển ưu tiên dành cho Khoa học công nghệ của Nhà nước và nhà trường đã đi vào thực chất, nhu cầu chứ không còn hình thức như trước nữa. Giảng viên trẻ được khuyến khích và hỗ trợ công tác giao lưu, học hỏi và trao đổi kinh nghiệm giúp họ được cọ xát và tạo động lực để tìm ra cái mới, tiếp thu cái mới.
Giảng viên người Tày đam mê nghiên cứu khoa học Với mong muốn truyền lửa cho sinh viên, nhiều năm qua, Thạc sĩ Chu Mỹ Giang - (dân tộc Tày) giảng viên Trường ĐH Kinh tế - ĐH Đà Nẵng, đã không ngừng phấn đấu trong công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Thạc sĩ Chu Mỹ Giang (thứ 2, từ phải sang), cùng các giảng viên khoa Marketing - Trường...