Đại học đa ngành: Đích đến phải là chất lượng
Đại học (ĐH) đa ngành, đa lĩnh vực là phương tiện, không phải là mục tiêu để các trường phấn đấu. Chất lượng nghiên cứu, tỷ lệ việc làm sinh viên… mới là mục tiêu cần nâng tầm giá trị.
Đó là quan điểm của TS Phạm Hiệp – Giám đốc trung tâm nghiên cứu và phát triển giáo dục Edlab Asia trước xu thế nhiều trường ĐH của Việt Nam đang hướng tới trở thành ĐH đa ngành, đa lĩnh vực.
Chất lượng nghiên cứu, tỷ lệ việc làm cho sinh viên mới là mục tiêu cần hướng đến.
Không phải để cho oai
Ở Việt Nam, ĐH đa ngành có thể coi là một thiết chế mới của Luật Giáo dục ĐH 2018, trong đó mô hình ĐH bao gồm nhiều trường thành viên ở trong, không phải là trường ĐH, không phải ĐH quốc gia, ĐH vùng. Quan điểm của chuyên gia độc lập này là nếu được quay trở lại trước thời điểm 2018, ông phản đối cơ chế này vì “không giống ai”. Khi giải thích cho người nước ngoài, mãi họ mới hiểu mô hình trường ĐH trong ĐH của ĐH Quốc gia, ĐH vùng.
Cho rằng đó không phải là câu chuyện câu chữ khi trường ĐH và ĐH, nhưng với xã hội nhìn nhận thì sẽ khá rối ở góc độ hệ thống. Trong một hệ sinh thái giáo dục ĐH đang tồn tại quá nhiều loại hình trường: ĐH Quốc gia, ĐH vùng, ĐH tự chủ theo Nghị quyết 77, ĐH thuộc UBND quản lý… Không có nước nào nhiều mô hình ĐH như ở Việt Nam.
Nay Luật đã có hiệu lực, nhiều trường mong muốn để trở thành một ĐH đa ngành, đa lĩnh vực là mong muốn chính đáng, thể hiện các trường muốn tự chủ hơn, muốn hội nhập quốc tế hơn. Điều đó không phải để giải quyết khâu oai như ai đó nói mà vấn đề là đi đúng theo xu hướng thế giới. Đó là cơ sở giáo dục ĐH đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực.
Video đang HOT
Thứ hai, khi thành ĐH, quyền tự chủ cũng sẽ cao hơn so với trường ĐH. Trường thành viên cũng sẽ nhiều quyền tự chủ hơn so với nếu chỉ là khoa… Điều đó cũng tốt cho các trường, các giảng viên của họ khi được phát triển chuyên môn tuyệt đối so với nếu chỉ là trường ĐH.
Quan tâm đến tiêu chí mở ngành mới
Cho rằng mô hình ĐH chỉ là cái áo, còn từng ngành cụ thể phải đảm bảo chất lượng. ĐH đa ngành, đa lĩnh vực nhưng không có nghĩa ĐH nào cũng là ĐH “quả mít” hay “con nhím”, tức là ngành nào cũng mạnh. Sẽ phải tập trung vào một số ngành, thông thường là các ngành có yếu tố gần nhau và lan dần ra làm thế mạnh.
Để mở một ngành mới, đều có những tiêu chuẩn riêng. Riêng với ngành y và sư phạm là ngành đặc thù, cần có can thiệp sâu của nhà nước trong việc yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ hơn các ngành khác, đồng thời phải kiểm soát rất chặt ngay cả khi đã cấp phép đào tạo.
Chia sẻ thêm, TS Phạm Hiệp cho rằng nhu cầu mở ngành y của nhiều trường hiện nay có một nguyên nhân xuất phát từ việc thiếu bác sĩ. Số lượng bác sĩ trên đầu người của Việt Nam đang thấp. Đi từ sức ép lớn của thị trường, của xã hội, các trường cũng tính toán để mở các ngành phải tuyển sinh được chứ không phải mở ồ ạt, mở bừa…
Dù chúng ta mong số lượng ít nhưng chất lượng cao đối với những ngành đặc thù này nhưng ở bài toán ngược lại, bác sĩ và cả người dân cũng sẽ rất khổ. Ở các thành phố lớn có đủ bác sĩ nhưng ở địa phương hay vùng sâu, vùng xa thì rất thiếu y bác sĩ.
Khẳng định đa ngành, đa lĩnh vực là phương tiện, không phải là mục tiêu để phấn đấu, TS Phạm HIệp cho rằng chất lượng nghiên cứu, tỷ lệ việc làm sinh viên… mới là mục tiêu. Trở thành ĐH đa ngành để vực sẽ giúp cho chất lượng đào tạo được nâng lên, sinh viên được học các thầy bộ môn giỏi nhất. Các trường trong ĐH đa lĩnh vực, không chỉ đào tạo đơn môn mà còn có những chương trình liên môn rất “hot”, dễ kiếm việc làm.
Trả lời câu hỏi về tiêu chí để trở thành ĐH đa ngành, đa lĩnh vực có cần siết hơn không để không thể trăm hoa đua nở, TS Phạm Hiệp cho rằng, qua nghiên cứu Luật thì thấy tiêu chuẩn cũng chặt, không dễ để trường nào cũng có thể ngay lập tức trở thành ĐH đa ngành.
Nhưng vấn đề lo ngại, theo TS Hiệp lại là việc rối ở hệ thống quá phức tạp…. Điều này, cần được tính toán và có hướng giải quyết phù hợp để thúc đẩy quá trình này phát triển, phù hợp với xu thế thế giới hiện nay.
Trường ĐH Bách khoa Hà Nội thông tin hiện trường đang hướng tới thành ĐH đa ngành, đa lĩnh vực khi thực hiện tự chủ toàn diện. Trường ĐH Bách khoa Hà Nội sẽ trở thành ĐH đa ngành với 6 trường ĐH thành viên: Điện – điện tử; Cơ khí; Hóa học – sinh học – thực phẩm – môi trường; Kinh tế quản lý, Công nghệ thông tin – Toán tin; Vật lý – khoa học vật liệu.
Trong kế hoạch phát triển 5 năm tới, trường ĐH Kinh tế quốc dân có định hướng trở thành ĐH đa ngành với ít nhất 3 thành viên là trường ĐH Kinh tế, trường ĐH Kinh doanh và trường Khoa học công nghệ.
Học viện Công nghệ Bưu chính viễn thông cũng đang làm đề án thành ĐH có các trường ĐH như Công nghệ – Kỹ thuật, Kinh tế – Quản trị kinh doanh, Cơ sở Học viện tại TP HCM.
Nâng trường đại học thành đại học cho oai, hay để nhận trọng trách lớn hơn?
Hiện nay nhiều trường đại học đang dự kiến thời gian hướng tới trở thành "đại học", đa ngành, đa lĩnh vực trong 3- 5 năm nữa khi thực hiện tự chủ toàn diện.
Liên quan đến vấn đề này, câu hỏi đặt ra là làm sao để có được các đại học đa lĩnh vực đích thực. Trao đổi với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Lê Viết Khuyến - Phó Chủ tịch hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam thông tin:
Trước năm 1993 (chí ít là từ sau năm 1975), ở Việt Nam không có các đại học đa lĩnh vực. Tất cả các cơ sở giáo dục đại học lúc đó đều phục vụ cho nhu cầu nhân lực của một nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, đều được xây dựng theo mô hình của Liên Xô cũ, tức là đều là các trường đại học chuyên ngành.
Tuy nhiên từ nửa đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Ban chấp hành Trung ương Khóa 7 (1993) đã ban hành Nghị quyết 4 về việc xây dựng các cơ sở giáo dục đại học trọng điểm. Các đại học này đều được hình thành chủ yếu bằng cách gom và tổ chức lại các cơ sở giáo dục đại học có trên cùng một địa bàn. Đây là một chủ trương đúng giúp chúng ta sớm có được những cơ sở giáo dục đại học mạnh, đa năng.
Theo tinh thần đó, Tiến sĩ Lê Viết Khuyến cho biết: "Tại Tờ trình Hội đồng Bộ trưởng số 1315/ĐH ngày 17/3/1992 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu rõ đại học đa lĩnh vực "không phải là một cơ quan quản lý trung gian mà thực chất là một đơn vị đào tạo thật sự quan trọng được lập ra trên cơ sở hợp nhất hàng loạt trường đại học và viện nghiên cứu khoa học để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống, bảo đảm hiệu suất đào tạo cao, thích ứng với một xã hội có nền kinh tế thị trường"".
Và trong 2 năm 1993 và 1994, lần lượt 5 đại học đa lĩnh vực đã được thành lập, dựa trên nguyên tắc gom một số cơ sở giáo dục đại học chuyên ngành có trên cùng một địa bàn lại với nhau.
Hiện tại 5 đại học này đều hoạt động theo các quy chế riêng do Thủ tướng Chính phủ (đối với 2 đại học quốc gia) hoặc do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (đối với 3 đại học vùng) ký ban hành.
Tiến sĩ Lê Viết Khuyến - Phó Chủ tịch hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam (ảnh: Tùng Dương)
Tiến sĩ Lê Viết Khuyến cho biết, khi thành lập các đại học đa lĩnh vực, xã hội mong chờ ở những ưu việt mà kiểu trường này sẽ bộc lộ ra như: bộ máy tổ chức gọn nhẹ (không có sự trùng lặp các khoa, bộ môn ở những trường thành viên khác nhau), ngân sách được đầu tư tập trung, sinh viên được tự do lựa chọn học các môn học hoặc các chương trình liên ngành ở các trường khác nhau trong một đại học, sinh viên được học với những giảng viên giỏi nhất ở tất cả các môn học, dễ dàng mở ra các chương trình liên ngành (Inter-disciplinary)...
Tuy nhiên đã hơn 20 năm qua đi nhưng các đại học của chúng ta được hình thành từ các năm 1993, 1994 vẫn chưa thực sự "mạnh" do các đại học đa lĩnh vực của ta ngay từ lúc thành lập đã có xu hướng tồn tại dưới dạng một "liên hiệp các trường đại học chuyên ngành ", trong khi đáng lẽ đại học đa lĩnh vực phải là một chỉnh thể thống nhất.
Vì các trường thành viên vẫn hoạt động gần như độc lập, không phối hợp với nhau, trước hết là về mặt đào tạo, nên đại học không có được sức mạnh tổng hợp. Bởi về mặt pháp lý các trường đại học thành viên đã được nhà nước công nhận có tư cách gần như một trường đại học độc lập làm cho hoạt động của các đại học đa lĩnh vực trở nên rời rạc và vô hiệu hóa các đại học đa lĩnh vực.
Thậm chí có ý kiến cho rằng ở các đại học này tầng trên "đại học" là thừa, gây cản trở đến hoạt động của các "trường đại học thành viên" dẫn đến chuyện nhiều trường muốn li khai ra khỏi đại học.
Chính vì vậy, Phó chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam khuyến cáo: "Chỉ nên nâng lên thành đại học khi phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống để đón nhận những trọng trách quan trọng hơn thích ứng với một xã hội có nền kinh tế thị trường chứ đừng chạy theo mốt".
Đạt 9.0 IELTS cũng không phải là tài năng "IELTS chỉ là một bài thi không hơn không kém. Và mỗi năm thế giới có đến hàng trăm nghìn người đạt được năng lực tiếng Anh IELTS ở nhiều mức độ khác nhau. Giữa IELTS và tài năng không liên quan gì đến nhau cả". - TS Phạm Hiệp nhấn mạnh. TS. Phạm Hiệp, Giám đốc trung tâm nghiên cứu và phát...